THUẬT NGỮ -ooOoo- [A] Abhiññā: Năng lực cao siêu.
Ādinava ñāṇa: Tuệ thấy hiểm họa. Tuệ minh sát thứ mười sáu, thấy hiểm họa trong những gì luôn luôn trở thành, không ngừng chuyển biến. Từ bỏ chấp thủ do luyến ái. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát, trang 527. Adukkhamasukha: Không-lạc-không-khổ, vô ký, một trong ba loại thọ (vedanā). Akusala: Bất thiện. Anāgāmi: A Na Hàm, tầng thánh thứ ba, Bất Lai. Xem chữ Noble One. Anāgāmimagga: A Na Hàm Ðạo. Xem chữ Noble One. Anattā: Vô ngã. Anicca: Vô thường. Aniccānupassanā ñāṇa: Tuệ quán vô thường. Quán niệm các hành (saṅkhāra) là vô thường, từ bỏ ý niệm vô thường. Āpo: Thủy đại, nguyên tố nước trong sắc pháp, có đặc tánh làm dính liền. Arahat: A La Hán. Xem chữ Noble One. Arahattamagga: A La Hán Ðạo. Xem chữ Noble One. Ariyamagga: Thánh Ðạo; hành giả chứng nghiệm Thánh Ðạo phát triển tuệ minh sát siêu thế. Ariyamagga ñāṇa: Tuệ minh sát của Thánh Ðạo. Ariyaphala: Thánh Quả. Xem chữ Magga và Phala. Āsava: Hoặc lậu, bợn nhơ tiềm tàng trong dòng nghiệp. Có bốn hột giống ô nhiễm đâm rễ ăn sâu trong dòng nghiệp là: kāmāsava (dục lậu), bhavāsava (hữu lậu, ham muốn cuộc sống vĩnh viễn trường tồn), diṭṭhāsava (tà kiến lậu), và avijjāsava (vô minh lậu). Assaji, Ðại Ðức: Một trong Năm Vị Tỳ Khưu đã được nghe Ð?c Phật thuyết giảng bài Pháp Ðầu Tiên và trở nên một trong năm vị đệ tử đầu tiên của Ðức Phật. Ātman (tiếng Sanskrit, Bắc Phạn): Tự ngã. Attā (tiếng Pāli, Nam Phạn): Tự ngã. Āvajjana citta: Ý môn hướng tâm, thức hướng về đối tượng. [B] Bhaṅga ñāṇa: Tuệ Diệt. Xem Mười Sáu tầng Tuệ Minh Sát. Bhaddiya, Ðại Ðức: Một trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu thường được gọi là Năm Anh Em Kiều Trần Như. Bhavaṅga: Thức hộ kiếp. Thức ngủ ngầm có tánh cách tiêu cực. Xem Cơ Năng Của Thức. Bhāvanā: Trau giồi, phát triển, thiền tập. Bhaya ñāṇa: Tuệ kinh sợ. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát. Bhikkhu: Tỳ khưu, một nhà sư Phật Giáo Bhojjhaṅga: Giác Chi, những Yếu Tố Của Sự Giác Ngộ. Có bảy yếu tố, thất giác chi: sati (niệm), dhammavicaya (trạch pháp), viriya (tinh tấn), pīti (phỉ), passadhi (an khinh), samādhi (đ?nh), upekkhā (xả). Brahma: Phạm Thiên. Một "vị trời" ở cảnh Phạm Thiên. [C] Cakkhuviññāṇa: Nhãn thức Cetanā: Tác ý. Ý muốn làm, nằm phía sau hành động bằng thân, khẩu, ý. Citta vithī: Lộ Trình Tâm. Tiến trình tư tưởng. Cuti citta: "Tử tâm", thức cuối cùng của người lâm chung, trước chặp thức tái sanh nối liền hai kiếp sống. [D] Deathless: Bất tử. Nibbāna, Niết Bàn. Deva: Một chúng sanh trong cảnh trời, một vị trời. Dhātu: Nguyên tố. Diṭṭhāsava: Tà kiến lậu. Xem chữ Āsava. Dukkha: Ðau khổ, thọ khổ, một trong ba loại thọ (vedanā). [E] Ehi bhikkhu ordination: "Ðến đây, tỳ khưu", những danh từ mà Ðức Phật dùng vào thời buổi sơ khai của Phật Giáo để chấp nhận một người vào Giáo Hội Tăng Già. Khi Giáo Hội phát triển rộng lớn, nghi thức hành lễ xuất gia quy củ hơn, phải có định số tối thiểu là năm vị tỳ khưu để chủ trì buổi lễ. [F] Foundations of Mindfulness: Niệm Xứ. Xem Satipaṭṭhāna. Four Noble Truths: Tứ Diệu Ðế, bốn Chân Lý Thâm Diệu: 1. Khổ Ðế, Chân Lý về sự khổ, 2. Tập Ðế, Chân Lý về nguyên nhân sanh khổ, 3. Diệt Ðế, Chân Lý về sự chấm dứt đau khổ, 4. Ðạo Ðế, Chân Lý về Con Ðường dẫn đến chấm dứt đau khổ. Fruit: Quả. Xem magga và phala, Ðạo và Quả. [G] Gati nimitta: Biểu tượng lâm chung, một dấu hiệu phát hiện trong tâm ngay trước chặp cuti citta, tử tâm, chặp tâm cuối cùng trước khi chết. Gotrabhū: Chặp tâm Chuyển Tánh. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát, trang 527. Group of Five: Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu trước kia tu khổ hạnh với Bồ Tát, là năm vị đầu tiên nghe Ðức Phật thuyết giảng kinh Chuyển Pháp Luân, bài Pháp Ðầu Tiên, và sau đó trở thành năm vị tỳ khưu đệ tử Phật đầu tiên. [H] Hadāya vatthu: Ý căn, căn môn của tâm. [J] Jīva: Ðời sống, sinh lực. Javana: Chặp tâm xung lực, hay tốc hành. Xem Cơ Năng Của Thức. Jhāna: "Thiền", một trạng thái tâm định ở mức cao. [K] Kāmāvacara: Thuộc dục giới, đối với những gì thuộc sắc giới và vô sắc giới. Kamma: Nghiệp, hành động có tác ý. Kamma nimitta: Hiện tượng của nghiệp, Nghiệp tướng, một hình ảnh phát hiện trong tâm của người sắp lâm chung, tiêu biểu cho một vài hành động xảy ra trước khi chết. Kāraka attā: Tự ngã chủ động. Tin rằng có một thực thể sống ảnh hưởng hành động bằng thân, khẩu, ý. Khandha: "uẩn", "nhóm" ; năm uẩn hay năm nhóm cấu thành con người: sắc (rūpa), thọ (vedanā), tưởng (saññā), hành (saṅkhāra), thức (viññāṇa). Khaya, vaya: chấm dứt, hoại diệt và tan rã. Kilesa: Ô nhiễm, bợn nhơ tinh thần. Kiriyā citta: Tâm hành (của chư Phật và chư vị A La Hán). Có hành động nhưng hành động ấy không tạo nghiệp. Koṇḍañña, Ðại Ðức: Một trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã nghe Ðức Phật thuyết giảng bài Pháp đầu tiên (Kinh Chuyển Pháp Luân) và trở thành một trong năm vị tỳ khưu đệ tử Phật đầu tiên. Ngài là người đầu tiên thấy Dhamma, Giáo Pháp, do đó có tên là Aññā Koṇḍañña (A-nhã Kiều-trần-như), "Koṇḍañña, người thông hiểu". Kusala javana citta: tâm xung lực, hay tốc hành thiện. [M] Magga and Phala: Ðạo và Quả; sự chứng nghiệm giác ngộ có bốn tầng: Tu Ðà Huờn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán. Trong mỗi tầng, hành giả chứng nghiệm hai giai đoạn: Ðạo và Quả. Như vậy có Tu Ðà Huờn Ðạo, Tu Ðà Huờn Quả, Tư Ðà Hàm Ðạo, Tư Ðà Hàm Quả, A Na Hàm Ðạo, A Na Hàm Quả, A La Hán Ðạo, A La Hán Quả, tất cả tám sự chứng nghiệm. Mahānāma, Ðại Ðức: Một trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã nghe Ðức Phật thuyết giảng thời "Pháp Ðầu Tiên" có tên là "Kinh Chuyển Pháp Luân" và trở thành một trong năm vị đệ tử đầu tiên của Ðức Phật. Majjhima Nikāya: Trung A Hàm, một trong năm bộ A Hàm của Tạng Kinh (Sutta Piṭaka). Māna: Ngã mạn, một trong mười thằng thúc (saṁyojana), tức dây trói buộc cột chúng sanh vào vòng quanh những kiếp sinh tồn. Nên ghi nhận sự khác biệt giữa māna, ngã mạn, với một dây trói buộc khác trong mười thằng thúc là sakkāyadiṭṭhi, thân kiến, chấp thân nầy là ta. Chỉ đến lúc chứng ngộ Ðạo Quả A La Hán mới có thể dứt bỏ māna, ngã mạn. Vị Tu Ðà Huờn loại trừ thằng thúc thân kiến. Mano: Tâm Manodvārāvajjana: Ý môn hướng tâm. Xem Cơ Năng Của Thức, và xem chữ Āvajjana. Manodvāravitthī: Lộ trình tâm, tiến trình của một loại tâm. Muñcitukamyatā ñāṇa: Tuệ muốn giải thoát. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát. [N] Ñāṇa: Tuệ giác. Nibbāna: Niết Bàn, Vô Vi, Bất Diệt, Giác Ngộ. Niraya: Ðịa ngục. Nirodha: Chấm dứt, diệt. Nivāsī attā: tự ngã liên tục. Xem Chương I. Noble One: Thánh Nhân, người đã chứng nghiệm tuệ siêu thế và như vậy đã loại trừ mọi ô nhiễm. Có bốn hạng Thánh Nhân (ariya):
[P] Pīti: Phỉ. Paṭhavī: Ðịa đại, nguyên tố đất trong sắc pháp. Paṭiccasamupāda: Ðịnh luật Tùy Thuộc Phát Sanh, hay Thập Nhị Nhân Duyên. Paṭisaṅkhāra ñāṇa: Tuệ Suy Tư. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát, trang 527. Paṭisandhi citta: Thức nối-liền. Xem Cơ Năng Của Thức, trang 528. Pañcadvārāvajjana: Ngũ môn hướng tâm. Xem Cơ Năng Của Thức, trang 528. Paccekabuddha: Phật Ðộc Giác, hay Bích Chi Phật, người đã chứng ngộ toàn giác nhưng không có ý định hay khả năng dạy người khác. Pāramitā: Ba La Mật, phẩm hạnh tích tụ. Parinibbāna: Ðại Niết Bàn, sự viên tịch của một vị Phật hay một vị A La Hán. Path: Thánh Ðạo, Bát Thánh Ðạo, hay Bát Chánh Ðạo, là con đường thực hành dẫn đến Niết Bàn; cũng được dùng để chỉ một mức thành tựu của tuệ minh sát siêu thế. Xem magga và phala, Ðạo và Quả. Peta: Ngạ quỷ, hay quỷ đói. Phala: Quả. Xem Magga và Phala. Phassa: Xúc, sự tiếp xúc. Puthujjana: Người phàm tục. [R] Rūpa: sắc, hình thể vật chất. [S] Sīla: Giới, sự tiết chế, cữ kiêng. Saṁsāra: Lang thang bất định. Luân hồi, thế gian vô minh. Saṅkhāra: Hành, một trong năm uẩn, khandhas; cũng có khi được dùng trong nghĩa những vật được cấu tạo, pháp hữu vi. Saṅkhārakkhandha: Hành uẩn. Saṅkhārupekkhā ñāṇa: Tuệ xả hành, trước các hành vô thường, khổ, vô ngã giữ tâm bình thản, buông xả. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát. Saṅkhata: Sự vật được cấu tạo. Saññā: tưởng, một trong năm uẩn. Sakadāgāmi: Nhứt Lai, hay Tư Ðà Hàm. Xem Noble One. Sakadāgāmimagga: Tư Ðà Hàm Ðạo Sakkāyadiṭṭhi: Thân kiến, niềm tin sai lầm, chấp cơ thể vật chất nầy là tự ngã, là chính ta. Thân kiến là một trong mười thằng thúc (saṁyojana). Nên ghi nhận sự khác biệt giữa sakkāyadiṭṭhi, thân kiến, và một thằng thúc khác trong mười thằng thúc là māna, ngã mạn.
Sāmaṇera: sa-di. Samādhi: Ðịnh. Samaṇa: sa môn, "một người cố gắng", nhà tu hành. Sāmi attā: Tự ngã kiểm soát. Xem Chương I. Sammasana ñāṇa: Tuệ thấu đạt. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát. Sampaṭicchana: Tiếp thọ tâm. Xem Cơ Năng Của Thức. Satipaṭṭhāna: Niệm Xứ, những nơi (xứ) mà người hành thiền minh sát dùng làm đề mục, tức hướng chú niệm đến: thân, thọ, tâm, và pháp (dhamma, những hiện tượng thiên nhiên). Hành giả thiền minh sát gom tâm ghi nhận bốn Niệm Xứ ấy, thay vì vào một đối tượng duy nhất. Satipaṭṭhāna Sutta: Kinh Niệm Xứ, bài kinh trong đó Ðức Phật thuyết giảng về bốn Niệm Xứ. Sotāpanna: Tu Ðà Huờn, Nhập Lưu. Xem chữ Noble One. Sotāpattimagga: Tu Ðà Huờn Ðạo. Stream Enterer: Nhập Lưu. Xem chữ Sotāpanna. Sukha: Thọ hỷ, hạnh phúc, cảm giác hoan hỷ thỏa thích, một trong ba loại thọ (vedanā). Sutta: Một thời thuyết giảng được ghi chép trong Tạng Kinh (Sutta Piṭaka), trong kinh điển Pāli. [T] Tadālambana: Ðăng ký tâm. Xem Cơ Năng Của Thức. Tejo: Hỏa đại, nguyên tố lửa trong sắc pháp. [U] U: Một cách xưng hô của người Miến Ðiện có tánh cách kính trọng. Chữ U đặt trước tên. Uccheda: Ðoạn kiến, một trong hai quan kiến quá khích. Udayabbaya ñāṇa: Tuệ sanh diệt. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát. Upadānakkhandha: Uẩn thủ, chấp thủ bám níu vào năm uẩn (khandha). Upekkhā: Xả, một trong ba loại thọ (vedanā). Cũng gọi là adukkhamasukha vedanā, thọ cảm không-lạc-không-khổ; upekkhā, thọ xả, một trong ba loại thọ, nên được phân biệt với tâm xả cao thượng trong bảy yếu tố của sự giác ngộ (Xả Giác Chi). [V] Vappa, Ðại Ðức: Một trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đầu tiên nghe Ðức Phật thuyết giảng bài Kinh Chuyển Pháp Luân và trở thành năm vị đệ tử Phật đầu tiên. Vayo: Phong đại, nguyên tố gió trong sắc pháp. Vedaka attā: Tự ngã kinh nghiệm thọ cảm. Xem Chương I. Vedanā: Thọ, một trong năm uẩn (khandhas). Vedanakkhandha: Thọ uẩn. Viññāṇa: thức, một trong năm uẩn (thức uẩn). Vipāka citta: Tâm quả. Vipassanāñāṇa: Tuệ minh sát. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát. Virāga: Buông bỏ, không khát vọng. Voṭṭhapana: Xác định tâm. Xem Cơ Năng Của Thức. Vuṭṭhānagāminī: Tuệ đưa vượt lên. Xem Mười Sáu Tầng Tuệ Minh Sát. [W] Worldling: Một người phàm tục, không giác ngộ. -ooOoo- MƯỜI SÁU TẦNG TUỆ MINH SÁT
-ooOoo- CƠ NĂNG CỦA THỨC
* HẾT * -ooOoo- from https://theravada.vn/chuong-ix-thuat-ngu/
0 Comments
THUẦN HÓA TUỆ MINH SÁT -ooOoo- Bản chánh kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, được chia làm bốn phần. Phần đầu đề cập đến lời dạy rằng "năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, có chiều hướng gây đau khổ và, bởi vì không thể điều khiển và kiểm soát nó, do đó không có tự ngã hay thể chất bên trong." Phần nhì đề cập đến câu hỏi, Ṅăm uẩn là thường còn hay vô thường? Là đau khổ hay hạnh phúc?" và giải thích rằng xem cái gì không thường còn, đau khổ và phải biến chuyển là "của tôi" "tôi" "tự ngã của tôi" là không thích nghi. Trong phần thứ ba, năm uẩn được xếp loại và liệt kê dưới mười một tựa đề và được dạy phải quán niệm xem là "không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi" (vô thường, khổ, vô ngã). Trong phần thứ tư mà giờ đây chúng ta sắp đề cập đến, Ðức Thế Tôn dạy người hành thiền phải thực hành như thế nào để dần dần, từng giai đoạn, trau giồi tuệ minh sát, và bằng cách nào phát triển nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, đưa đến Ðạo Tuệ và Quả Tuệ và cuối cùng đến giải thoát cùng tột, trở thành bậc A La Hán. Làm Thế Nào Phát Triển Tuệ Minh Sát? Evaṁ passaṁ bhikkhave, sutvā ariyasāvako rūpa-smiṁpi nibbindati vedanāyapi nibbindati saññāyapi nibbindati saṅkhāresupi nibbindati viññāṇasmiṁpi nibbindati. "Nầy chư Tỳ Khưu, vị thánh đệ tử đã được thụ huấn, thấy như vậy, nảy sanh tâm chán nản sắc, chán nản thọ, chán nản tưởng, chán nản hành, chán nản thức." Bằng cách ấy Ðức Thế Tôn dạy nên phát triển tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, như thế nào. Trong đoạn kinh trên cụm từ "thấy như vậy" có nghĩa là thấy vô thường, khổ, vô ngã. Người đã thấy như vậy trở thành vị đệ tử đã được thụ huấn, trang bị đầy đủ trí tuệ bằng cả hai phương cách, lắng nghe lời dạy và tự cá nhân kinh nghiệm. Vị ấy được dạy rằng muốn nhận thấy bản chất vô thường, khổ và vô ngã của năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, thì phải chuyên cần chú niệm, thận trọng ghi nhận tất cả nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức mỗi khi thấy, nghe v.v... Vị ấy cũng nghe dạy phải suy niệm rằng ngũ uẩn thủ, năm nhóm bám níu, chỉ là danh pháp và sắc pháp, và sự hay biết là (cơ năng, hay nhiệm vụ của) tâm (danh, nāma). Vị ấy cũng nghe về nhân và quả, về bản chất không ngừng sanh diệt, vô thường và không có thể chất. Tất cả những điều ấy là kiến thức đã được thâu đạt nhờ học hỏi hoặc nghe thuật lại. Hành giả đã có được những kiến thức ấy trước khi bắt đầu hành thiền. Rồi trong khi ghi nhận phồng, xẹp, co vào, duỗi ra, di chuyển, giãn ra, ép vào, sờ đụng biết cứng, thô, mềm, láng, nóng, lạnh và thấy, nghe, hửi, nếm, và sờ đụng, hành giả nhận thức rằng những đối tượng mà mình ghi nhận là sắc pháp và sự hiểu biết những đối tượng ấy là danh pháp và chỉ có hai: sắc pháp và danh pháp. Trong khi ghi nhận nhãn thức, nhĩ thức, thân thức và ý thức hành giả biết rằng thức ấy, tức sự thấy, sự nghe v.v... là danh, và căn môn của thức là sắc, chỉ có hai, danh và sắc ấy. Ðây là kiến thức thâu thập qua kinh nghiệm cá nhân. Lại nữa, khi có ý muốn co vào, hành giả co; khi có ý muốn duỗi ra, hành giả duỗi; khi có ý muốn đi, hành giả đi. Ghi nhận tất cả những sự kiện ấy, hành giả nhận thức rằng mình co vào vì có ý muốn co vào; mình duỗi ra, hoặc đi vì có ý muốn làm vậy, không có một thực thể sống, một tự ngã, làm cho mình co vào, duỗi ra hay đi, chỉ có nguyên nhân tạo nên hậu quả. Ðây cũng là kiến thức được thâu thập xuyên qua kinh nghiệm bản thân. Nếu hành giả không ghi nhận những hiện tượng ấy ắt không thể nhận thấy đúng sự thật. Hành giả phát tâm ưa thích. Từ ưa thích sanh khao khát ước mong. Bởi vì khao khát ước mong nên phải cố gắng thành đạt cho được, do đó tạo nghiệp -- thiện nghiệp và bất thiện nghiệp -- đưa đến những trở thành (hữu) mới. Bằng cách ấy hành giả thấu hiểu Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy Thuộc, liên quan đến hiện tượng nhân quả. Một lần nữa, đối tượng sắc, thọ, tưởng, hành, thức và cái tâm hay biết các đối tượng ấy, cả hai đều liên tục sanh khởi và hoại diệt. Như vậy hành giả hiểu biết đúng lời dạy của Ðức Thế Tôn, rằng những hiện tượng ấy là vô thường, khổ và vô ngã. Như đã nói ở phần trên, các loại kiến thức khác nhau ấy, bắt đầu từ sự phân biệt danh pháp và sắc pháp, chí đến kiến thức về bản chất vô thường, khổ và vô ngã, tất cả đều được thâu đạt xuyên qua kinh nghiệm bản thân, không phải nhờ học hỏi hay nghe thuật lại. Chúng ta dám nói rằng trong nhóm quý vị hiện diện trong cử tọa đây phần lớn đã có trang bị đầy đủ những kinh nghiệm cá nhân tương tợ. Như vậy chúng ta nói rằng người đã có thể nhận thức bản chất vô thường, khổ và vô ngã đúng như thật, qua kinh nghiệm bản thân là người đã được giáo huấn đầy đủ, người đã được trang bị đủ cả hai, kiến thức qua học hỏi và kiến thức qua kinh nghiệm cá nhân, cả pháp học lẫn pháp hành. Khỏi cần phải nói rằng Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, đã là bậc Nhập Lưu, ắt có trang bị đầy đủ cả hai loại kiến thức, do đó là hàng đệ tử được thụ huấn đầy đủ. Vị đệ tử của Ðức Thế Tôn đã được thụ huấn đầy đủ như vậy có thể nhận thức, với sự hiểu biết của chính mình, rằng năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, phát hiện mỗi khi thấy, nghe, sờ đụng và hiểu biết là vô thường, khổ và vô ngã. Vị hành giả mà nhận thức được như vậy sẽ sớm thành đạt udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, phân biện rõ ràng trạng thái nhanh chóng sanh diệt của sắc pháp và danh pháp. Theo sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, khi đã thành đạt tuệ giác nầy hành giả thấy những ánh sáng lạ thường và hào quang, và chứng nghiệm hạnh phúc an lạc chưa từng bao giờ được biết, chứng nghiệm tâm phỉ (pīti) và có tình trạng thanh bình tĩnh lặng. Hành giả cũng kinh nghiệm trạng thái an khinh, thân tâm nhẹ nhàng thơ thới, dịu dàng và có nhiều nghị lực. Như thế ấy vị hành giả cảm nghe thân tâm hoan hỷ thỏa thích không thể tả. Tâm chú niệm của vị hành giả toàn hảo đến đổi có thể nói rằng không có chi mà mình không ghi nhận, trí minh mẫn sáng suốt và bén nhạy làm cho mình có cảm tưởng rằng không có chi mà mình không thể hiểu biết. Tâm đạo càng tiến triển nhiệt thành, đức tin nơi Ðức Phật, Giáo Pháp và Ðức Tăng càng tăng trưởng mãnh liệt, rõ ràng và sáng tỏ hơn bao giờ hết. Tuy nhiên tất cả những hiện tượng lạ thường ấy phải được ghi nhận và buông bỏ, để trôi qua. Khi không nắm giữ mà buông xả như vậy giai đoạn tuệ nầy cũng trôi qua và hành giả tiến đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt. Vào lúc nầy đề mục thiền và cái tâm hành thiền được thấy tan rã và biến mất từng cặp. Thí dụ như khi ghi nhận bụng phồng, thấy di động phồng và tâm ghi nhận di động ấy cùng lúc tan biến. Mỗi di động phồng lên được phân biện tan biến trong từng những giai đoạn biến tan nhỏ riêng biệt, liên tục tiếp nối nhau. Mỗi khi ghi nhận thì hành giả phân biện rõ ràng điều nầy. Ðề mục thiền hình như chấm dứt và biến mất trước, liền theo đó tâm ghi nhận đề mục ấy cũng nhanh chóng chấm dứt. Dĩ nhiên đó là những gì thật sự xảy diễn. Khi một ý tưởng được quán niệm, tâm quán niệm chỉ phát sanh sau khi ý nghĩ ấy biến mất. Ðiều nầy cũng xảy diễn trong khi ghi nhận những đối tượng khác -- sự ghi nhận chỉ đến sau khi đối tượng được ghi nhận đã biến mất. Nhưng khi tuệ giác phát triển chưa được đầy đủ, ta có cảm tưởng hình như đối tượng được ghi nhận biến tan cùng lúc với tâm hiểu biết. Ðiều nầy trùng hợp với lời dạy của bài kinh, rằng chỉ quán niệm khoảnh khắc hiện tại. Nhận thức tiến trình tan biến liên tục và nhanh chóng xảy diễn như vậy ta hiểu biết rằng cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, và đó là điều đáng kinh sợ. Ðây là tuệ diệt, nhận thấy hiểm họa hay kinh sợ bhaṅga ñāṇa. Khi thấy sự vật là hiểm nguy, hành giả hiểu biết rằng nó là độc hại và đầy hiểm họa. Ðó là ādinava ñāṇa, tuệ giác nhận thấy hiểm họa trong tất cả những gì không ngừng chuyển biến, luôn luôn trở thành (tức các pháp được cấu tạo, các hành, hay các pháp hữu vi). Hành giả không còn thấy thích thú trong những danh uẩn và sắc uẩn đáng kinh sợ ấy nữa, thấy đó là đáng ghê tởm và đáng chán. Ðó là nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản. Ðức Thế Tôn muốn nhắc đến trạng thái tâm nầy khi Ngài tuyên ngôn rūpasmiṁpi nibbindati: Nó càng chán ghét sắc pháp ..." Trước khi nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, nầy phát triển ta còn khá bằng lòng và vui vẻ thỏa thích với hình sắc của cơ thể hiện thời, và vui vẻ thỏa thích ước mong một thân hình đẹp đẻ xinh tươi trong tương lai ở cảnh người hay cảnh trời. Ta khao khát trông chờ một thân hình mạnh khoẻ, xinh đẹp ở cảnh người hoặc cảnh trời. Với sự phát sanh của tuệ giác nầy ta không còn cảm nghe hạnh phúc, không còn vui vẻ sống trong tình trạng mong chờ. Cái mà được gọi là hạnh phúc trong cảnh người chỉ là sự kết hợp của sắc pháp và danh pháp luôn luôn nhanh chóng sanh rồi diệt. Hành giả cũng nhận thức rằng cái mà được gọi là hạnh phúc ở cõi trời cũng cùng thế ấy, là sự kết hợp phù du tạm bợ của sắc và danh pháp mà mình đã chán chê ghét bỏ và mệt mỏi ghê tởm. Cũng tựa hồ như người thợ chày, bắt nắm trong tay một con rắn độc mà trong khi đó nghĩ rằng nó là con lươn; một khi nhận ra rằng mình chỉ cầm trong tay một con rắn độc, không phải con lươn, thì vội vả muốn vứt bỏ đi càng sớm càng tốt. Hình ảnh thí dụ nầy đã được mô tả đầy đủ trong bài giảng của Sư về kinh Sīlavanta Sutta. Lại nữa, trước khi thành đạt tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, hành giả thỏa thích với tất cả những cảm thọ đang hưởng, và mong mỏi sẽ còn được thoả thích hưởng thọ những niềm hạnh phúc của cảnh người và cảnh trời trong những kiếp sống tương lai. Trong hiện tại vị ấy thỏa thích hồi nhớ những kỷ niệm (tưởng, saññā) êm đềm vui vẻ của thời xưa, và mong mỏi sẽ còn thỏa thích hưởng thọ những kỷ niệm tốt đẹp trong kiếp sống tương lai. Vị ấy thỏa thích với những tư tưởng và hành động trong hiện tại và những tư tưởng và hành động trong những kiếp sống vị lai. Vài người còn van vái nguyện cầu sẽ được những gì mình muốn làm, sau khi tái sanh vào kiếp tới. Vài người lợi dưỡng và thỏa thích ước mơ tưởng tượng trong hiện tại, trông chờ sẽ được như thế trong những kiếp sống tương lai. Nhưng khi tuệ chán nản, nibbidā ñāṇa, phát triển, thấy đúng sự thật là thọ, tưởng, hành và thức mãi mãi nhanh chóng sanh diệt thì đâm ra ghê tởm chán chê. Cũng như trong hiện tại nó nhanh chóng hoại diệt, dầu ta có tái sanh trong cảnh người hay cảnh trời thì những thọ, tưởng, hành, thức ấy cũng sẽ không ngừng tan biến. Nhận xét như thế hành giả cảm nghe không còn ham muốn những uẩn ấy nữa và bất mãn với nó. Ðiều chánh yếu là thật sự bất mãn và mệt mỏi nhàm chán. Chỉ khi hành giả thật sự chán nản với tình trạng đau khổ và bấp bênh của đời sống mới mạnh mẽ phát triển ý muốn tách rời, thoát ra khỏi, xa lìa nó, và do đó mới phát tâm chuyên cần cố gắng để buông bỏ. Chỉ đến chừng đó tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa) sẽ phát hiện và tuệ minh sát phát triển đầy đủ, và hành giả chứng ngộ Niết Bàn (Nibbāna) qua Ðạo Tuệ và Quả Tuệ, trở thành Nhập Lưu, Nhứt Lai, Bất Lai hay một vị A La Hán. Như vậy điều quan trọng chánh yếu là phải tận lực tinh tấn trau giồi nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản. Vì lẽ ấy Ðức Bổn Sư dạy:
Vị hành giả đã ghi nhận mỗi khi thấy, nghe, nếm, sờ đụng và suy tư khi nó vừa sanh khởi, nhận thức rằng đó chỉ là những hiện tượng nhanh chóng phát sanh và hoại diệt. Do đó vị nầy hiểu biết đúng thực tướng của sự vật -- tất cả đều vô thường. Với tuệ giác thông hiểu tận tường đặc tướng vô thường hành giả chứng ngộ rằng không có chi là vui thú và thỏa thích trong thân và tâm hiện tại nầy; những trạng thái thân và tâm trong tương lai cũng cùng một bản chất như vậy, sẽ không có chi đáng vui thích và hoan hỷ trong đó. Do đó hành giả phát sanh tâm nhàm chán và mệt mỏi với tất cả mọi sắc pháp và danh pháp, và hết lòng muốn thoát ra khỏi thân và tâm nầy, tận lực chuyên cần hành thiền nhắm đến giải thoát. Do đó saṅkhārupekkha ñāṇa, tuệ xả hành, phát sanh và hành giả chứng ngộ Niết Bàn, Nibbāna, qua Thánh Ðạo. Vì lẽ ấy Ðức Thế Tôn dạy rằng tuệ minh sát nhìn thấy chỉ có bất toại nguyện và chán chê là con đường thật sự đến Niết Bàn. Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy Khổ
Một vị đạo sư đã phiên dịch danh từ "saṅkhāra" trong câu nầy là "tác ý" (cetanā), tức là nguyên nhân tạo nghiệp, thiện hay bất thiện. Như vậy theo vị nầy: Ṅhững hành động tạo thiện nghiệp như bố thí, trì giới, tất cả đều là saṅkhāra, hành, và do đó là khổ. Cùng thế ấy thực hành thiền vắng lặng hay thiền minh sát cũng là saṅkhāra, hành. Tất cả các hành ấy đều tạo nghiệp đau khổ. Muốn thành đạt trạng thái vắng lặng Niết Bàn (Nibbāna), không nên có bất luận hành động nào. Hãy giữ tâm như nguyên khởi nó là vậy." Nói như thế ấy, vị đạo sư nầy giảng sai lệch đi giáo huấn của Ðức Phật để được thích hợp với mục tiêu của mình và của hàng đệ tử đã chấp nhận quan kiến của mình, và như thế, quảng bá một giáo huấn sai lầm. Trong thực tế, danh từ "saṅkhāra", hành, trong câu nầy không có nghĩa là hành động tạo thiện hay bất thiện nghiệp có tác ý (kusala, akusala saṅkhāra) phát sanh do vô minh. Nơi đây saṅkhāra, hành, giản dị có nghĩa là danh pháp và sắc pháp phát sanh do nghiệp, tâm, điều kiện thời tiết và vật thực. Một lần nữa, danh pháp và sắc pháp ở đây không bao gồm những thức của Ðạo và Quả siêu thế, hoặc những tâm sở làm đối tượng cho thiền minh sát (vipassanā bhāvanā). Chỉ có những hình thức tại thế của danh pháp và sắc pháp được đề cập đến ở đây. Danh từ "saṅkhāra" ở câu trước cũng phải được hiểu cùng một thế ấy. Như vậy, tất cả những danh pháp và sắc pháp, phát hiện mỗi khi thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư đều không ngừng nhanh chóng sanh khởi và hoại diệt và do đó, là vô thường. Bởi vì là vô thường, luôn luôn chuyển biến, nên nó là đau khổ. Ðó là ý nghĩa nên được hiểu ở đây. "Tất cả các hành (tức các pháp hữu vi, hay các pháp được cấu tạo) phát sanh do nghiệp, tâm, điều kiện thời tiết và vật thực đều đau khổ. Khi do tuệ diệt (bhaṅga ñāṇa), ta trở thành bất mãn và nhàm chán mệt mỏi với tất cả đau khổ ấy. Bất toại nguyện và chán nản nầy thật sự là con đường trong sạch chân chánh (Thanh Tịnh Ðạo), dẫn đến Niết Bàn (Nibbāna) vượt thoát ra khỏi mọi ô nhiễm và khổ đau." Hành giả nhận thức rằng tất cả những danh pháp và sắc pháp phát hiện vào lúc hay biết cảm thọ phải nhanh chóng tan rã, và do đó là vô thường. Bởi vì nó vô thường nên phải chịu luôn luôn tan rã, người hành thiền nhận thức rằng nó là đáng kinh sợ và là một nguồn đau khổ. Ðối với vài vị hành giả, những cảm giác khó chịu như gồng cứng, nóng, đau nhức và ngứa ngái không ngừng phát sanh ở nhiều nơi khác nhau trong thân. Mỗi khi những cảm giác ấy phát sanh thì hành giả ghi nhận, và do đó nhận chân rõ ràng toàn thể châu thân là một khối đau khổ. Ðiều nầy hợp với lời dạy dukkha maddhakkhi sallato: tuệ minh sát, vipassanā ñāṇa, nhận thấy thân nầy như một khối đau khổ vì bị gai góc hay mũi nhọn đâm chích. Một câu hỏi có thể nêu lên, "Có chăng khác biệt nào giữa những khổ đau mà người thường kinh nghiệm và khổ đau mà người có hành thiền kinh nghiệm?" Sự khác biệt là khi cảm nghe đau nhức thì người thường thấy là, "cơn đau của tôi, tôi đang đau khổ", nhưng vị hành giả hiểu biết thọ khổ mà không dính mắc, vị ấy nhận thức rằng đó chỉ là những hiện tượng khởi sanh và tức khắc hoại diệt. Ðây là vipassanā ñāṇa, một đối tượng của tuệ minh sát, không chấp vào một cái ta. Dầu nhận thức rằng đó là đau khổ vì đặc tướng vô thường của nó, hay xem đó là một khối khổ đau không thể chịu đựng, không có thỏa thích nào trong các hành, chỉ có nhàm chán. Có tình trạng bất toại nguyện và mệt mỏi chán chê đối với danh pháp và sắc pháp trong hiện tại và vị lai, một tình trạng hoàn toàn chán ghét đối với tất cả danh pháp và sắc pháp. Ðó là sự phát triển của nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản. Khi tuệ giác (ñāṇa) phát triển ắt có ý muốn tách rời, xa lìa khỏi danh pháp và sắc pháp, muốn thoát ly ra khỏi đó. Hành giả tiếp tục công phu thực hành thiền tập nhằm vượt đến tình trạng giải thoát ấy. Liên tục chuyên cần tinh tấn như thế, đến một lúc saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành sanh khởi và hành giả chứng ngộ Niết Bàn qua Ðạo Tuệ và Quả Tuệ. Do đó Ðức Thế Tôn mô tả tuệ giác xem tất cả các hành (saṅkhāra) là khổ, là đối tượng của sự chán nản, là Con Ðường Niết Bàn. Cùng một thế ấy Ðức Thế Tôn dạy quán chiếu như thế nào để nhận thức rằng các hành là vô ngã và chán chê muốn tách rời ra khỏi đó. Tuệ Chán Nản Phát Triển Khi Thấy Vô Ngã
Danh từ dhamma trong câu nầy cũng cùng một ý nghĩa với chữ saṅkhāra của hai câu trước, là danh pháp và sắc pháp, theo nhận thức của tuệ minh sát. Anattā (vô ngã) là dhamma (pháp), và dhamma là những hiện tượng, như vậy cũng là anattā. Nơi đây danh từ dhamma được dùng nhằm làm tỏ rạng hơn ý nghĩa vô ngã của saṅkhāra. Ðó là lối giải thích của Bản Chú Giải, và chúng tôi tin rằng giải thích như vậy là thích nghi và có thể chấp nhận. Nhưng cũng có những quan điểm khác chủ trương rằng danh từ dhamma cố ý được xử dụng ở đây để bao gồm Ðạo và Quả siêu thế và luôn cả những pháp vô lậu, Niết Bàn, Nibbāna. Chúng tôi nghĩ rằng lối diễn dịch nầy không vững lắm. Người thường nhận thấy rằng saṅkhāra, hành, như sự thấy và sự nghe là thường còn và lạc, trong khi người hành thiền thấy là vô thường và khổ. Cùng thế ấy, cái mà người thường xem là tự ngã, cũng danh và sắc tại thế ấy, vị hành giả thấy là vô ngã, anattā. Người hành thiền không cần và cũng không thể ghi nhận (niệm) những sự vật siêu thế. Những vật vô lậu ấy không thể là đối tượng suy niệm cho người tại thế và những người nầy không thể bám vào những đối tượng ấy. Như vậy phải nhận định rằng dhamma ở đây chỉ là saṅkhāra tại thế, tức danh và sắc, vốn có thể làm đề mục quán chiếu của thiền minh sát (vipassanā bhāvanā). "Tất cả những sắc pháp và danh pháp tại thế, như sự thấy và sự nghe, không phải là tự ngã, không phải thực thể sống. Xuyên qua thiền minh sát, khi đến tầng tuệ diệt (bhaṅga ñāṇa), ta thấu triệt chân lý nầy, và càng bất mãn, chán chê tất cả những đau khổ nầy. Chán ghét là con đường chân chánh thật sự dẫn đến trong sạch (Thanh Tịnh Ðạo) Niết Bàn, vượt thoát khỏi mọi ô nhiễm và khổ đau." Bởi vì người thường chấp sắc pháp và danh pháp là tự ngã, thực thể sống, nên họ hoan hỷ thỏa thích trong đó và cảm nghe hạnh phúc. Nhưng vị hành giả chỉ thấy đó là những hiện tượng không ngừng sanh diệt và do vậy nhận thức rằng đó không phải tự ngã. Như được giải thích trong bài kinh nầy, bởi vì những hiện tượng ấy có chiều hướng gây đau khổ nên được thấy không phải là tự ngã và ta không thể điều khiển hay kiểm soát theo ý mình. Như vậy người hành thiền không còn thỏa thích hay hoan hỷ trong danh và sắc pháp. Ý muốn tách rời, thoát ra khỏi những danh pháp và sắc pháp ấy, phát sanh đến hành giả. Vị nầy tiếp tục chuyên cần hành thiền nhằm thành tựu mục tiêu giải thoát ra khỏi danh và sắc pháp ấy. Ðúng lúc, saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, phát sanh và hành giả chứng ngộ Niết Bàn do Ðạo Tuệ. Do đó Ðức Thế Tôn mô tả tuệ minh sát, xem tất cả sắc pháp và danh pháp là vô ngã, và dẫn đến tình trạng nhàm chán mệt mỏi với sắc pháp và danh pháp ấy, là Con Ðường Niết Bàn. Như vậy phải thận trọng ghi chú ba câu kệ trên. Cho đến khi, bằng kinh nghiệm của chính mình, hành giả nhận thấy rằng các hành, saṅkhāra, tức danh pháp và sắc pháp, luôn luôn nhanh chóng sanh diệt, tuệ minh sát thật sự mới phát triển đầy đủ để thấy vô thường, khổ và vô ngã. Và nếu không thật sự chứng nghiệm vô thường, khổ, vô ngã, nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, nhàm chán những đau khổ của danh pháp và sắc pháp, sẽ không phát sanh. Và không có nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, không thể chứng ngộ Niết Bàn. Chỉ khi tự mình chứng nghiệm bản chất vô thường, khổ và vô ngã của các hành, saṅkhāra, tâm nhàm chán mệt mỏi mới phát triển, và nibbidā ñāṇa, tuệ chán nản, khởi hiện. Chỉ khi tiến đạt đến nibbidā ñāṇa nầy Ðạo Tuệ, Quả Tuệ và sau đó là Niết Bàn, sẽ đến. Vì lẽ ấy trong bài kinh Ðức Thế Tôn tuyên ngôn: Evaṁ passaṁ bhikkhave, sutvā ariyasāvako, rūpasmiṁpi nibbindati ...: "Nầy chư tỳ khưu, vị Thánh Ðệ Tử thấy như thế (tức thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức 'không phải của ta, không phải là ta, không phải là tự ngã của ta') càng phát tâm nhàm chán sắc, nhàm chán thọ, tưởng, hành, thức." Ðịnh Nghĩa Nibbinda Ñāṇa Trong đoạn kinh Pāli trên, mấy chữ "Thấy như thế " tóm lược lời tuyên ngôn về tiến trình phát triển tuệ minh sát đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt. Và với những chữ "nhàm chán..." tóm lược tiến trình phát triển vipassanā ñāṇa, tuệ minh sát, từ bhaṅga, ādinava, và nibbidā (diệt, thấy hiểm họa, và chán nản) chí đến vuṭṭhānagāminī, tuệ đưa vượt lên, được mô tả một cách chính xác. Như vậy trong Chú Giải kinh Mūlapaṇṇāsa có đoạn: Nibbindatīti ukkanthati. Ettha ca nibbindāti vuṭṭhānagāminī vipassanā adhippeta. Ṅibbindati ... cảm nghe nhàm chán mệt mỏi, có nghĩa là buồn chán, bất mãn, không bằng lòng. Nghĩa rộng của danh từ 'Nibbindati ... là tuệ minh sát đạt đến Thánh Ðạo, được gọi là vuṭṭhāna, đưa vượt lên'." Trong sách Paṭisambhidāmagga và Visuddhimagga, tuệ chán nản, nibbinda ñāṇa, được liệt kê trong bảy giai đoạn phát triển liên tiếp: bhaṅga, ādīnava, nibbidā, muñcitukamyatā, paṭisaṅkhāra, saṅkhārupekkhā, và vuṭṭhānagāminī vipassanā ñāṇa. (Tuệ diệt, tuệ thấy hiểm họa, tuệ chán nản, tuệ muốn giải thoát, tuệ suy tư, tuệ xả hành, và tuệ đưa vượt lên). Ðến đây chúng ta đã giải thích đến tầng tuệ chán nản, nibbidā. Giờ đây Sư sẽ tiếp tục với phần còn lại. Thật Sự Mong Muốn Niết Bàn Nhận thức rằng mỗi khi mình quán niệm thì chỉ thấy có tình trạng nhanh chóng tan rã, hành giả nhàm chán và bất mãn với danh uẩn và sắc uẩn phát hiện trong sự thấy, sự nghe v.v... Vị ấy muốn tách lìa không còn dính líu đến các danh và sắc pháp ấy nữa, nhận định rằng muốn được thanh bình an lạc chỉ có cách là thoát ly hẳn ra khỏi tình trạng không ngừng sanh diệt của những hiện tượng danh sắc. Ðó là sự khởi sanh của tâm thật sự mong muốn Niết Bàn. Trước kia còn tưởng tượng Niết Bàn là một trung tâm điểm quan trọng mà mình hy vọng đến đó để thọ hưởng tất cả những lạc thú hằng mong mỏi. Ðó không phải là ước muốn cái thật sự là Niết Bàn, mà chỉ là loại hạnh phúc tại thế. Những ai chưa thật sự thấy hiểm họa và khuyết điểm của danh pháp và sắc pháp còn ham muốn những loại hạnh phúc trần tục tại thế ấy. Họ không thể chấp nhận ý niệm hoàn toàn chấm dứt mọi danh pháp và sắc pháp, bao gồm những loại dục lạc. Một hôm nọ nhà sư trẻ tuổi tên Lāludāyi có nghe Ðức Sārīputta (Xá Lợi Phất) thì thầm nói nhỏ, "Niết Bàn quả thật hạnh phúc! Niết Bàn quả thật hạnh phúc!" Vị sư trẻ bạch hỏi, "Bạch Ngài, trong Niết Bàn không còn cảm giác, vậy thì không có gì để kinh nghiệm, có phải vậy không? Như thế thì làm sao có hạnh phúc trong Niết Bàn, nơi mà không còn cảm giác?" Vị ấy nêu lên điểm thắc mắc nầy vì đã được dạy rằng Niết Bàn không còn danh pháp và sắc pháp, tức không có cảm giác. Nhưng vì tự mình chưa có kinh nghiệm về Niết Bàn nên vị ấy không thấy được ở Niết Bàn có thể có hạnh phúc gì. Câu trả lời của Ngài Sārīputa là, "Chính vì sự kiện không có cảm giác mà đó là hạnh phúc." Ðúng thật vậy, trạng thái thanh bình an lạc là hạnh phúc hơn tất cả những cảm giác hoan hỷ thỏa thích. Ðó là chân hạnh phúc. Một cảm giác được nghĩ là hạnh phúc hay thỏa thích bởi vì ta khát khao thèm muốn nó. Không thèm muốn, không khát vọng, ắt không có cảm giác nào có thể được xem là thỏa thích. Hãy bình tâm suy tư trong giây lát, ta sẽ thấy rõ điểm nầy. Một món ăn thơm ngon xem hình như đem lại thích thú và khoái lạc trong khi ta ưa thích hay thèm nó. Nhưng khi bệnh hoạn ốm đau hay lúc bụng no, cũng món ăn thơm ngon ấy, ta không còn thấy nó hấp dẫn nữa. Nếu bị bắt buộc phải ăn, ta sẽ không cảm nghe thích thú, không thấy nó là ngon lành, mà còn thấy đó là một nguồn đau khổ. Hãy lấy một thí dụ khác, trong thời gian bao lâu ta có thể thưởng thức liên tục nhìn một cảnh đẹp, hay nghe một âm thanh êm dịu? Mấy tiếng đồng hồ, mấy ngày, mấy tháng, hay mấy năm? Dầu chỉ trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ ta cũng không thể giữ tâm liên tục thích thú trước khi nhàm chán, mệt mỏi. Nếu còn phải tiếp tục nhìn quang cảnh ấy, hay phải nghe âm thanh ấy ta sẽ thấy đó là một kinh nghiệm khủng khiếp, một cực hình. Do vậy, rõ ràng không ưa thích, không tham vọng, không cảm giác là hạnh phúc. Một bài viết với đầy đủ chi tiết về vấn đề nầy đã được trình bày trong quyển sách của chúng tôi tựa đề "Concerning Nibbāna" [Sách được ấn hành dưới tựa đề: "Nibbānapaṭisaṁyutta Kathā: On The Nature of Nibbāna", tại Yangon, Myanmar, May 1995, do Hội Buddha Sasana Nuggaha Foundation xuất bản]. Ức Ðoán Niết Bàn Vị hành giả đã phát triển tuệ chán nản nibbinda ñāṇa thật sự nhận thấy sắc thái độc hại của danh pháp và sắc pháp và trở nên chán nản. Vị ấy hiểu rằng ở Niết Bàn không có danh pháp và sắc pháp, không cảm giác, thật sự là thanh bình an lạc, và hết lòng ước muốn thành đạt. Cũng tựa hồ như ở từ xa nhìn ngắm mục tiêu để dò dẫm đường đi nước bước. Ðó là nhìn đến Niết Bàn bằng tuệ muốn giải thoát, muñcitukamyatā ñãṇa. Vì ý chí muốn thành đạt Niết Bàn, Nibbāna, và lòng ham muốn thoát ly ra khỏi những hiểm họa của danh và sắc pháp ngày càng phát triển, hành giả càng thêm chuyên cần tinh tấn. Với mức tinh tấn ngày càng tăng trưởng ấy hành giả tiến đạt đến tuệ suy tư, (paṭisaṅkhā ñāṇa, suy tư về những gì mình đã quán chiếu), trong khi ấy thông hiểu bản chất vô thường, khổ và vô ngã thâm sâu hơn trước. Ðặc biệt là đặc tướng đau khổ, được hành giả thấu triệt rõ ràng hơn. Khi paṭisaṅkhā ñāṇa, tuệ suy tư, tăng trưởng và thuần thục, hành giả đạt đến tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa, tâm hoàn toàn bình thản (xả) trước tất cả các vật được cấu tạo hay các pháp hữu vi (hành), tất cả danh pháp và sắc pháp. Ðó là mô tả một cách tổng quát như thế nào bắt đầu từ sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, một loạt những tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) dần dần phát triển nơi một cá nhân có thể rèn luyện (neyya). Ðối với một vị thánh nhân, như bậc Tu Ðà Huờn, sau khi ngồi thiền một lúc thì có thể đến tầng xả hành (saṅkhārupekkhā). Chắc chắn rằng trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, khi vừa nghe kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, thì tức khắc đạt đến tuệ giác nầy. Sáu Ðặc Ðiểm Của Tuệ Xả Hành (Saṅkhārupekkha ñāṇa) 1. Tâm Thản Nhiên (Xả) Saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, có sáu đặc tính phân biệt rõ ràng. Ðầu tiên là tâm thản nhiên, không rung động vì sợ hải hoặc bất mãn, như được sách Visuddhimagga (Thanh Tịnh Ðạo) mô tả: Bhayañca nandiñca vippahāya sabba saṅkhāresu udāsino. Tâm xả ấy phát sanh như thế nào? Khi đến tuệ kinh sợ, bhaya ñāṇa, hành giả quán chiếu trạng thái kinh sợ và phát triển tuệ giác có đặc điểm là chán ghét. Ðến tuệ xả hành, saṅkhārupekkhā ñāṇa, tất cả những dấu hiệu kinh sợ đều tan biến. Ðến giai đoạn thấy hiểm họa, ādīnava, hành giả nhìn thấy tất cả sự vật đều hiểm nguy độc hại; đến tuệ chán nản, nibbidā, thấy tất cả đều đáng nhàm chán và ghê tởm. Ðến giai đoạn muốn giải thoát, muñcitukamyatā, hành giả phát tâm muốn tách rời lìa bỏ, thoát ly, vượt ra khỏi các uẩn. Khi tiến đạt đến giai đoạn saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, thấy tất cả những đặc tính của các tầng tuệ minh sát (ñāṇa) thấp, tức thấy hiểm họa, nhàm chán và ghê tởm, muốn giải thoát, và muốn tận lực chuyên cần tinh tấn đều tan biến. Trong sách Visuddhimagga, hai chữ bhayañca vippahāya -- từ bỏ kinh sợ -- hàm xúc tiến bộ của tuệ giác nầy. Ðúng theo đoạn sách nầy ta phải thấy rằng với sự tan biến của tâm kinh sợ, tất cả những đặc tính khác, tức thấy hiểm họa, chán ghét, muốn thoát ra khỏi các hành, và muốn tận lực chuyên cần tinh tấn cũng biến tan. Lại nữa, đến tầng udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, hành giả phát triển phỉ lạc mạnh mẽ, và trở nên rất hoan hỷ thỏa thích. Saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, là mức độ cao hơn udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt; tuy nhiên, đến tầng nầy tất cả những cảm giác phỉ lạc đều không còn. Do đó trong sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, có đoạn viết nandiñca vippahāya -- "từ bỏ thích thú". Hành giả đã từ bỏ mọi thích thú và khoái lạc; sống trong tình trạng chỉ quán chiếu tất cả các hành, saṅkhāra, phát hiện trong sự thấy, sự nghe v.v... với tâm hoàn toàn bình thản. Không còn hoan hỷ, thích thú, hạnh phúc hay khoái lạc như ở tầng udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt. Ðó là không kinh sợ hay thỏa thích trong khi thực hành Giáo Pháp, Dhamma. Ðối với thế sự cũng vậy, vị hành giả đã đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, rõ ràng không còn kinh sợ hay thích thú với những sự việc trần gian. Khi nghe những tin tức đáng sợ trong đời sống trần tục hay trong đời sống cá nhân, vị ấy thản nhiên không xúc động, không băn khoăn, rối loạn, lo âu hay sợ sệt. Vị ấy cũng thản nhiên khi gặp những diễn biến vui vẻ, không xúc động nhiều, cũng không thích thú hoan hỷ khoái lạc. Ðó là đã vượt thoát ra khỏi mọi kinh sợ và thích thú trong đời sống trần tục. 2. Tâm Quân Bình Ðặc tính thứ nhì là trạng thái tâm quân bình, cảm giác không quá vui thích cũng không quá sầu muộn, chán nản ngã lòng, trước những thăng trầm của đời sống trần tục. Có thể nhìn cả hai, những diễn biến vui vẻ và những sự việc buồn phiền, một cách vô tư với tâm bình thản. Câu tiếng Pāli được trích ở đây là: Cakkhunā rūpaṁ disvā neva sumano hoti na dummano, upekkhako viharati, sato sampajāno. "Khi mắt nhìn thấy một hình sắc, vị hành giả giữ tâm bình thản, không vui không buồn. Dầu cảnh sắc có đẹp đẽ xinh tươi hay hấp dẫn như thế nào hành giả không cảm nghe phấn khởi, hân hoan; dầu cảnh vật có xấu xí hay đáng ghét, hành giả vẫn thản nhiên, giữ thái độ quân bình, chú niệm và hiểu biết rõ ràng." Vô tư ghi nhận tất cả mọi cảnh vật đã thấy, dầu đáng vui thích hay nghịch lòng, chỉ thông hiểu bản chất vô thường, khổ và vô ngã thật sự của nó mà không phát tâm ưa thích hay ghét bỏ, hành giả nhìn mọi hiện tượng một cách bình thản, quán sát với tâm buông xả, không dính mắc, để hiểu biết hiện tượng thấy, vốn nhanh chóng hoại diệt trong mỗi khoảnh khắc. Vị hành giả đã đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, qua kinh nghiệm bản thân, thông hiểu công trình quán chiếu ấy diễn tiến như thế nào. Ðó là phương cách phải nhìn thấy và quán sát hiện tượng thấy với thái độ tâm quân bình. Trong khi nghe, hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư, hành giả cũng phải làm như thế ấy, quán chiếu một cách vô tư, chỉ để thấu hiểu những hiện tượng mỗi khi nó phát hiện. Khả năng theo dõi những gì xảy diễn ở lục căn với tâm bình thản được gọi là chalaṅgupekkhā, một phẩm hạnh của chư vị A La Hán. Nhưng một người thường tại thế mà đã tiến đạt đến giai đoạn saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, cũng có thể thực hành được như thế. Theo Bản Chú Giải bộ Tăng Nhứt A Hàm, Aṅguttara Nikāya, một hành giả đã tiến đến mức udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, có thể cũng có phẩm hạnh nầy giống như chư vị A La Hán, nhưng ở một mức độ không rõ ràng nổi bật lắm. Ðến tầng bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, phẩm hạnh ấy rõ ràng hơn, và trở nên thật sự rõ ràng ở tầng saṅkhārupekkhā, xả hành. Như vậy, người hành thiền đã tiến đến mức phát triển nầy, có được phẩm hạnh của chư vị A La Hán, cũng đáng được kính trọng và mến phục. Dầu cho những người khác không ai biết, vị hành giả tự mình hiểu biết phẩm hạnh của chính mình có thể cũng lấy làm vừa lòng và đẹp dạ với công trình hoàn thành những tiến bộ của mình. 3. Không Cố Gắng Ðặc tính thứ ba của tuệ xả hành là quán chiếu một cách tự nhiên, không có sự cố gắng. Saṅkhāra vicinane majjhattaṁ hutvā, sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, dạy như vậy. "Giữ thái độ vô tư đối với công trình quán chiếu." Trong Bản Phụ Chú Giải, câu nầy được giải thích rằng "cũng giống như giữ trạng thái tâm quân bình trong khi quán chiếu các hành, saṅkhāra, cùng thế ấy phải duy trì thái độ tâm quân bình, vô tư, trong pháp hành quán chiếu công trình nầy." ở những mức độ phát triển thấp hành giả phải cố gắng nhiều để làm phát hiện đề mục quán chiếu. Ðến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, không cần phải đặc biệt cố gắng để làm phát sanh đề mục quán chiếu. Những đối tượng ấy tự động tự phát hiện, từng đối tượng một, và hành giả tự nhiên theo dõi quán chiếu mà không cần cố gắng. Công trình quán chiếu trở thành một tiến trình dễ dàng suôn sẻ chảy trôi. Trên đây là ba đặc tính thản nhiên và quân bình của saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành. Tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập đến ba đặc tính kế. 4. Bền Vững Lâu Dài Ở các tầng tuệ thấp, không dễ gì giữ tâm vững chắc trên đề mục trong một thời gian chừng nửa tiếng hoặc một tiếng đồng hồ. Ðến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, người hành thiền có thể giữ tâm quán chiếu đều đặn vững chắc trong một, hoặc hai, ba tiếng. Nhiều thiền sinh chúng ta đã kinh nghiệm điều nầy. Vì lẽ ấy sách Paṭisambhidā-magga định nghĩa rằng tuệ xả hành là tuệ giác có thể kéo dài bền vững trong một thời gian lâu. Và Bản Phụ Chú Giải của sách Visuddhi-magga giải thích rằng đó là "một tiến trình phát triển liên tục, lâu dài." Chỉ khi nào tồn tại một thời gian lâu mới có thể được nói là bền vững lâu dài. 5. Ngày Càng Thêm Vi Tế Ðặc tính thứ năm của tuệ xả hành là càng ngày càng trở nên vi tế và tế nhị hơn, như được dạy trong sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, giống như bột mà người ta sàng sẩy qua một cái rây, càng lúc càng mịn màng hơn. Từ lúc phát sanh saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, vốn đã vi tế, nhưng càng lúc càng trở nên vi tế và tế nhị hơn, và hiện tượng nầy, nhiều hành giả của chúng ta đã kinh nghiệm. 6. Tâm Không Phóng Dật Ðặc tính cuối cùng của tâm xả hành là không phóng dật. ở các tầng thấp hơn, trạng thái an trụ không đủ dõng mãnh, tâm phóng đến nhiều đối tượng khác nhau, nhưng đến tầng saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, tâm vững vàng an trụ hầu như không còn chao động hay phóng dật. Dầu là những đối tượng nào mà không thích hợp với công phu quán chiếu tâm cũng không chấp nhận, không nói đến những vọng tưởng. Ðến tầng bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, tâm hướng về nhiều phần khác nhau trong khắp châu thân, và như vậy xúc giác được cảm nhận từ khắp mọi nơi trong thân. Nhưng đến giai đoạn xả hành nầy, khó làm cho tâm phóng nhảy nơi nầy nơi khác vì nó chỉ gom vào một vài điểm mà hành giả thường dùng làm đối tượng để quán chiếu. Như vậy, tâm không hướng về khắp châu thân mà chỉ rút về bốn đối tượng -- chỉ hay biết từng giai đoạn phồng, xẹp, ngồi và đụng. Trong bốn đối tượng, thân ngồi có thể biến mất, chỉ còn lại ba đối tượng để niệm. Rồi di động phồng xẹp cũng phai dần, chỉ còn lại cảm giác đụng. Sự hay biết sờ đụng cũng biến mất luôn, chỉ còn lại cái tâm hay biết, và tâm nầy được ghi nhận, "hay biết, hay biết." Vào những lúc tương tợ, ta thấy rằng mỗi khi suy tư đến một đề mục được đặc biệt chú ý, tâm không ở lâu nơi đó mà quay trở về đề mục quán chiếu thông thường. Vì lẽ ấy nói rằng tâm không phóng dật. Sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, mô tả là patiliyati patikutati na sampasāriyati: "nó tháo lui, co rút lại, và giựt lùi; không trải rộng ra." Ðó là ba dấu hiệu hay ba đặc tính của saṅkhār-upekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, mà người hành thiền phải tự bản thân kinh nghiệm. Chưa kinh nghiệm được ba đặc tính -- bền vững lâu dài, càng lúc càng vi tế hơn, và không phóng dật -- có nghĩa là người hành thiền chưa phát triển tâm đến tầng tuệ nầy. Phát Triển Tuệ Ðưa Vượt Lên Khi saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, với sáu đặc tính, đã được viên mãn thành tựu, có một loại tuệ giác hình như phát sanh rất nhanh chóng. Loại tuệ giác nầy được gọi là vuṭṭhānagāminī vipassanā. Vuṭṭhāna có nghĩa là trổi dậy, vượt lên. Vipassanā ñāṇa là tuệ minh sát nằm trong tiến trình sanh diệt liên tục diễn tiến của các hành (tức tiến trình danh sắc). Với mỗi chặp tư tưởng quán sát sự chú tâm rơi vào tiến trình danh sắc liên tục diễn tiến nầy. Tuy nhiên khi tuệ minh sát hướng vào ariyamagga ñāṇa, Thánh Ðạo Tuệ, phát triển đối tượng của sự chú ý trở thành sự chấm dứt hiện tượng sanh diệt của danh sắc. Ðiều nầy có nghĩa là tâm trổi dậy, hay "vượt lên" khỏi luồng trôi chảy của danh sắc và đối tượng của tâm trở thành Nibbāna, Niết Bàn. Vì lẽ ấy ("vượt lên" tách rời ra khỏi luồng danh-sắc trôi chảy liên tục) Thánh Ðạo được gọi là vuṭṭhāna, vượt lên. Khi tuệ minh sát nầy nhanh chóng chấm dứt, hành giả chứng ngộ Niết Bàn. Như vậy, trong tuệ minh sát đặc biệt nầy, tâm trổi dậy, vượt lên từ các hành (tức các pháp hữu vi, hay tiến trình danh sắc) vượt đến Thánh Ðạo, do đó có tên vuṭṭhānagāminī. Vuṭṭhānagāminī vipassanā, tuệ minh sát vượt lên, nầy phát sanh trong khi hành giả ghi nhận một trong sáu thức, như ý thức hay thân thức chẳng hạn, trở thành hiển nhiên nổi bật trong khoảnh khắc đặc biệt nầy. Quán chiếu các hiện tượng nhanh chóng hoại diệt hành giả nhận thấy bản chất vô thường, hoặc nhận thấy bản chất đau khổ, hay bất toại nguyện, hay nhận thấy bản chất vô ngã. Tâm vuṭṭhānagāminī nầy phát sanh tối thiểu hai hoặc ba lần; đôi khi có thể phát sanh bốn, năm, hay chí đến mười lần. Như được mô tả trong kinh điển, vào khoảnh khắc cuối cùng của vuṭṭhānagāminī, tuệ minh sát vượt lên, có ba chặp tư tưởng của luồng javana (xung lực, hay tốc hành) phát sanh -- parikamma (chặp sơ khởi, hay chuẩn bị), upacāra (chặp kế cận) và anuloma (chặp thuận thứ) -- theo sau đó là một chặp javana đặc biệt thuộc dục giới (kāmāvacara) chụp lấy Nibbāna, Niết Bàn -- nơi mà tất cả danh pháp và sắc pháp chấm dứt -- làm đối tượng. Sau chặp javana nầy Thánh Ðạo phát sanh, và tâm rơi vào đối tượng Niết Bàn, không có danh và sắc, chấm dứt tất cả mọi saṅkhāra, hành. Tức khắc sau chặp ariyamagga javana, Thánh Ðạo, ariyaphala javana, Thánh Quả, liền phát sanh hai hoặc ba lần, có cùng một đối tượng với Thánh Ðạo. Cùng với sự phát sanh của Thánh Ðạo và Thánh Quả, người tại thế thông thường trở nên Thánh Nhân, dần dần đến bậc Nhập Lưu, Nhứt Lai, Bất Lai và vị Thánh Bất Lai cuối cùng trở nên bậc A La Hán. Chặp xung lực (javana) thiện thuộc dục giới (kāmāvacara kusala javana) lấy Niết Bàn làm đối tượng được gọi là gotrabhū, chuyển tánh, chặp tư tưởng xung lực vượt qua khỏi huyết thống của thế gian trần tục. Sách Paṭisambhidā magga định nghĩa gotrabhū như sau: "Trổi dậy từ những đối tượng vốn là các hiện tượng được cấu tạo (hành), có đặc tính trở thành, tâm có chiều hướng lao mình vào đối tượng Niết Bàn, vốn không trở thành, và do đó được gọi là gotrabhū, chuyển tánh." Hoặc "Phát sanh từ đối tượng của nó là tiến trình danh sắc liên tục diễn tiến, tâm đâm đầu hướng về đối tượng Niết Bàn, không có tiến trình liên tục trở thành." Sách Milindapañhā, Mi-Lin-Ða Vấn Ðáp, nói: "Tâm của vị hành giả quán chiếu và ghi nhận từng hiện tượng một, sau hiện tượng nầy đến hiện tượng khác, từng giai đoạn, vượt qua khỏi luồng danh sắc liên tục trôi chảy, và đâm vào trạng thái mà luồng danh sắc chấm dứt." Trước tiên hành giả quán chiếu những hiện tượng danh và sắc không ngừng khởi sanh và phát hiện mỗi khi suy tư, sờ đụng, nghe, thấy v.v... Vị ấy chỉ nhận thấy một luồng các hiện tượng danh pháp và sắc pháp liên tục trôi chảy hình như vô tận. Trong khi quán chiếu như thế ấy về những hiện tượng danh sắc vô tận và suy tư về đặc tướng vô thường, khổ và trạng thái rỗng không của tự ngã, đến một lúc, tức khắc sau chặp tâm cuối cùng (parikamma, upacāra và anuloma) của sự suy tư, tâm bỗng dưng hướng về và rơi xuống trạng thái mà tất cả những đối tượng được quán chiếu cùng với tâm quán chiếu hoàn toàn chấm dứt. Sự hướng về là hướng về chặp tâm gotrabhū, chuyển tánh, và sự rơi xuống là chứng ngộ Niết Bàn, qua Thánh Ðạo và Thánh Quả. "Tâu Ðại Vương, vị hành giả đã hành thiền đúng và lao mình sâu vào nơi có sự chấm dứt của những hiện tượng tâm linh, được nói là chứng ngộ Nibbāna, Niết Bàn." Ðây là đoạn kinh mô tả vuṭṭhānagāminī vipassanā, tuệ minh sát vượt lên, Thánh Ðạo và Thánh Quả được chứng ngộ như thế nào. Người hành thiền sẽ thấy cách trình bày nầy trùng hợp với những gì mà tự cá nhân mình chứng nghiệm. Kinh điển và kinh nghiệm cá nhân trùng hợp nhau như thế nào: Thông thường hành giả bắt đầu quán sát thân thức và ý thức hoặc sự nghe, sự thấy v.v... ; tóm lại, đó là quán chiếu bản chất của năm nhóm bám níu, ngũ uẩn thủ. Như đã nói trước đây, vào giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, hành giả luôn luôn ghi nhận sự tan biến nhanh chóng của những hiện tượng danh sắc và thấy đó là đáng kinh hoàng khủng khiếp. Ðiều nầy đưa hành giả đến tình trạng nhàm chán và ghê tởm. Muốn thoát ra khỏi những tình trạng nầy, hành giả tận lực cố gắng cho đến khi tiến đạt đến giai đoạn saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, vào lúc mà mình có thể nhìn tất cả mọi sự vật một cách thản nhiên với tâm quân bình. Khi saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, được viên mãn thành tựu, liền phát sanh một cách rất nhanh chóng và rõ ràng vuṭṭhānagāminī và anuloma ñāṇa, (tuệ đưa vượt lên và tuệ thuận thứ), và hành giả rơi vào trạng thái hoàn toàn rỗng không, nơi mà tất cả mọi đối tượng và mọi hoạt động quán chiếu đều chấm dứt. Ðó là chứng ngộ Nibbāna, Niết Bàn, qua Thánh Ðạo và Thánh Quả, đưa người phàm tục tại thế vào trạng thái Nhập Lưu, đưa vị Nhập Lưu vào trạng thái Nhứt Lai, vị Nhứt Lai vào trạng thái Bất Lai và sau cùng đưa vị Thánh Bất Lai vào trạng thái A La Hán. Kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, mô tả như sau những biến đổi ấy: Từ Nhàm Chán Tiến Ðến Thánh Ðạo Và Thánh Quả Nibbindaṁ virajjati virāgā vimuccati "Vì nhàm chán hành giả không còn khát khao ham muốn và phát triển Thánh Ðạo. Không còn khát khao ham muốn và đã khai triển Thánh Ðạo, hành giả vượt ra khỏi những hoặc lậu (āsava) và ô nhiễm (kilesa)." Từ sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt đến bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, hành giả phát triển sự hiểu biết về bản chất vô thường, khổ, vô ngã của các hiện tượng. Trong đoạn trên Ðức Thế Tôn hàm xúc sự phát triển nầy trong cụm từ Evaṁ passaṁ -- "Thấy như thế". Giai đoạn từ bhaṅga (diệt) đến saṅkhārupekkhā (xả hành) và anuloma (thuận thứ) được mô tả là "nibbindati", nhàm chán và mệt mỏi. Rồi đến đoạn nibbindaṁ virajjati, virāgā vimuccati: "Khi chán ghét, hành giả càng mệt mỏi nhàm chán; khi nhàm chán mệt mỏi, hành giả càng không khát khao ham muốn; không khát khao ham muốn, hành giả càng giải thoát," để mô tả sự phát triển Ðạo Tuệ và Quả Tuệ. Một cách mô tả thật chính xác, rất đúng với kinh nghiệm thực hành của người hành thiền. Sự Mô Tả Trùng Hợp Với Thực Nghiệm Của Hành Giả Như Thế Nào? Saṅkhārupekkhā ñāṇa, tuệ xả hành, càng tăng trưởng vững chắc và mạnh mẽ, trí tuệ khác thường nhanh chóng phát sanh đến hành giả. Nếu tình trạng phát triển cảm giác nhàm chán chưa đủ dõng mãnh để từ bỏ danh pháp và sắc pháp hành giả có thể còn bị lo âu khuấy động: "Rồi việc gì sắp xảy đến đây? Có phải ta sắp lìa đời chăng?" Nếu bị lo âu dày xéo như thế đó ắt không thể gom tâm an trụ, và tâm định sẽ suy giảm. Nhưng khi cảm giác chán chê mệt mỏi đủ mạnh, lo âu không phát hiện và hành giả tiếp tục quán chiếu một cách suôn sẻ dễ dàng, không cần cố gắng. Hành giả sẽ sớm sủa rơi vào trạng thái thoát ly ra khỏi mọi khát vọng và luyến ái, và hoàn toàn chấm dứt tất cả danh pháp và sắc pháp. Ðó là giải thoát ra khỏi mọi ô nhiễm và hoặc lậu (āsava). Khi rơi vào trạng thái chấm dứt mà không luyến ái, qua Thánh Ðạo đầu tiên (sotāpattimagga, Tu Ðà Huờn Ðạo), hành giả thoát ra khỏi những hoặc lậu tà kiến (diṭṭhāsava, tà kiến lậu), thoát ra khỏi si mê liên hợp với hoài nghi và ngờ vực, và thoát ra khỏi mọi hình thức dục lạc thô kịch có thể đưa đến khổ cảnh. Ðó là giải thoát qua Tu Ðà Huờn Quả, vốn là thành quả của Tu Ðà Huờn Ðạo. Khi đến giai đoạn chấm dứt qua Thánh Ðạo thứ nhì, Nhứt Lai, có sự giảm suy dục lạc. Ðến giai đoạn chấm dứt Thánh Ðạo thứ ba, Bất Lai, thoát ra khỏi mọi hình thức dục lạc vi tế cũng như mọi hình thức si mê. Với giai đoạn chứng ngộ A La Hán Ðạo (arahattamagga ñāṇa, A La Hán Ðạo Tuệ) hoàn toàn giải thoát ra khỏi mọi hình thức ô nhiễm và hoặc lậu. Ðó là đúng theo lời dạy virāgā vimuccati. Khi đã thoát hẳn ra khỏi mọi khát vọng và rơi vào tình trạng chấm dứt, phát sanh sự giải thoát qua Thánh Quả, vốn là thành quả của Thánh Ðạo. Sự giải thoát nầy được nhận thấy rõ ràng qua một tiến trình suy tư. Suy Tư Của Vị A La Hán Tiến trình suy tư của một vị A La Hán được mô tả trong đoạn kết luận của bài kinh Anattalakkhana Sutta, Vô Ngã Tướng, như sau: Vimuttasmiṁ vimuttamīti ñāṇaṁ hoti "khīnā jāti vusitaṁ brahmacariyaṁ kataṁ karaṇīyaṁ nāparaṁ ittattāyā'ti pajānātīti". "Khi đã giải thoát, hành giả suy tư và hiểu biết rằng tình trạng giải thoát ra khỏi mọi ô nhiễm đã viên mãn thành tựu, và hành giả hiểu biết, 'Sự sanh đã cạn nguồn (không còn sanh trở lại), Ðời Sống Thánh Thiện đã được trải qua, những gì phải làm đã được hoàn tất, không còn gì phải làm.' Hành giả suy tư và hiểu biết như thế." Ðó là như thế nào vị A La Hán suy tư trở lại thành tựu của Ngài. Nơi đây ta có thể thắc mắc, "Làm sao Ngài hiểu được rằng sự sanh đã cạn nguồn. Ngài không còn tái sanh nữa?" Ngày nào còn tà kiến và ảo kiến liên quan đến danh uẩn và sắc uẩn, và còn luyến ái dính mắc vào đó, xem danh sắc là thường còn, lạc, và tự ngã thì sẽ còn trở thành, còn lặp lại đổi mới, tái sanh trở lại trong vòng quanh những kiếp sinh tồn. Khi ta không còn si mê, đã thoát ra khỏi mọi tà kiến và ảo kiến, ắt cũng không còn luyến ái, không bám níu vào kiếp sinh tồn. Vị A La Hán suy tư và hiểu biết tường tận rằng Ngài đã vượt hẳn ra khỏi mọi tà kiến và ảo kiến liên quan đến các uẩn và không còn bám níu vào đó nữa. Do đó Ngài thông hiểu rằng đối với Ngài sự sanh đã cạn nguồn, không còn trở lại. Ðó là suy tư về những ô nhiễm đã được loại bỏ và tận diệt. Nơi đây, "Ðời Sống Thánh Thiện", hay đời sống phạm hạnh (brahmacariya), có nghĩa là thực hành giới, định, tuệ (sīla, samādhi, paññā). Tuy nhiên, nghiêm chỉnh trì giới hoặc trau giồi thiền định tự nó không giúp thành đạt mục tiêu cao siêu nhất. Mục tiêu tối thượng chỉ có thể thành tựu bằng cách ghi nhận những hiện tượng danh sắc mỗi khi nó phát hiện, chí đến lúc thành đạt Ðạo và Quả. Do vậy, phải hiểu rằng "cuộc Sống Thánh Thiện đã được sống" có nghĩa là thiền tập đã được thực hành chí đến khi thành đạt mục tiêu tối thượng. "Những gì phải làm" có nghĩa là thực hành thiền tập để thấu hiểu đầy đủ Tứ Diệu Ðế. Nhiệm vụ nầy được viên mãn hoàn tất với sự chứng đắc arahattamagga, A La Hán Ðạo. Dầu sau khi tự mình đã thấy bản chất của sự chấm dứt qua ba Ðạo thấp hơn (Tu Ðà Huờn, Tư Ðà Hàm, A Na Hàm) và đã hiểu biết bản chất vô thường, khổ và vô ngã, nhưng còn vài ảo kiến về tưởng uẩn và thức uẩn vẫn còn chưa được tận diệt. Bởi vì những ảo kiến ấy nên vẫn còn thích thú, tham ái, và tin tưởng những hiện tượng là vui vẻ và thích thú. Căn cội của tham ái vẫn chưa được nhổ tận gốc rễ. Vì lẽ ấy đối với vị Thánh Bất Lai vẫn còn một vài khuyết điểm rất tế nhị. Ðến giai đoạn arahattamagga, A La Hán Ðạo, Chân Lý về sự Ðau Khổ được thấu triệt trọn vẹn. Tất cả mọi ảo kiến về tưởng uẩn và thức uẩn đều tận diệt. Bởi vì không còn ảo kiến, những khái niệm sai lầm về vui vẻ thích thú, không có cơ hội cho nguyên nhân tham ái khởi phát vì nó đã bị loại bỏ hoàn toàn. Nhiệm vụ hiểu biết Tứ Diệu Ðế đã được viên mãn thành tựu. Vì lẽ ấy khi suy tư, vị A La Hán thấy rằng không còn gì để làm, tất cả những gì phải làm đã viên mãn hoàn tất. Trong đoạn kinh về những suy tư của vị A La Hán không có đoạn nào đề cập đến Ðạo, Quả, Niết Bàn và những ô nhiễm. Nhưng phải hiểu rằng những điểm ấy đã được suy nghiệm đến trước hết, rồi mới nghĩ đến các vấn đề khác. Như vậy phải hiểu rằng đoạn suy tư "Ðời Sống Thánh Thiện đã được trải qua, những gì phải làm đã được hoàn tất" theo sau suy tư về Ðạo, Quả và Niết Bàn. Ðoạn "Tâm đã được giải thoát, sự sanh đã cạn nguồn" chỉ được nghĩ đến sau khi suy tư về những ô nhiễm đã được tận diệt. Những suy tư của các vị Nhập Lưu, Nhứt Lai và Bất Lai đã được trình bày trong bài giảng của Sư (Ngài Mahasi) về kinh Sīlavanta Sutta. Tóm lược "Nhàm chán mệt mỏi, hành giả không còn ham muốn, thoát ly ra khỏi mọi khát vọng, và Thánh Ðạo phát sanh. Không khát vọng và Thánh Ðạo phát sanh đến mình, hành giả vượt thoát khỏi mọi trói buộc của ô nhiễm. Cùng đến với trạng thái giải thoát hành giả suy tư rằng tâm mình đã giải thoát và hiểu biết: 'Sự sanh đã cạn nguồn; Ðời Sống Thánh Thiện đã được trải qua, những gì phải làm đã được hoàn tất, không còn trở lại trạng thái trở thành nầy nữa." Những vị Trưởng Lão đọc tụng bài kinh nầy tại Hội Nghị và ghi chép đoạn cuối cùng như sau: Idamavoca Bhagavā attamanā pañcavaggiyā bhikkhū Bhagavato bhāsitaṁ abhinanduṁ. Imasmiñca pana veyyā karaṇasmiṁ bhaññamāne pañc-avaggiyānaṁ bhikkhūnaṁ anupādāya āsavehi cittāni vimucciṁsūti. "Ðức Thế Tôn dạy như vậy. Hoan hỷ, Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu lấy làm thích thú lắng nghe những lời dạy của Ðức Thế Tôn. Lại nữa, trong lúc nghe thuyết giảng (hoặc chỉ vào đoạn cuối của bài giảng) tâm của Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu giải thoát ra khỏi mọi luyến ái và ô nhiễm." Trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, Ðức Koṇḍañña (Kiều Trần Như) đã đắc Quả Nhập Lưu vào canh đầu đêm trăng tròn tháng Bảy DL. trong khi nghe thời Pháp Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattana Sutta). Chắc Ngài vẫn tiếp tục quán niệm, nhưng không tiến được đến mức chứng ngộ Ðạo Quả A La Hán, mãi cho đến khi nghe được thời giảng bài kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng. Ðức Vappa đắc Quả Nhập Lưu trong ngày đầu, hạ tuần tháng Bảy DL., Ðức Bhaddiya trong ngày thứ nhì, Ðức Mahānāma trong ngày thứ ba và Ðức Assaji trong ngày thứ tư. Tất cả năm vị đều là bậc Nhập Lưu khi nghe kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, nầy đã quán chiếu và suy gẫm về ngũ uẩn, thấy rằng "Ðây không phải của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi"; rằng nó là vô thường, khổ và vô ngã. Các Ngài tuần tự đắc ba tầng tuệ cao hơn, tuệ nầy rồi đến tuệ khác, và tất cả năm vị đều trở thành A La Hán. Theo Bản Chú Giải của sách Paṭisambhidā, các Ngài chỉ đắc Ðạo Quả A La Hán vào lúc nghe phần cuối cùng của bài giảng bằng cách suy niệm về lời dạy. Lúc bấy giờ, cách nay 2,552 năm, tính lui lại từ năm 1963. Năm ấy, vào ngày thứ năm hạ tuần tháng Bảy D.L. sau thời giảng về kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, trên thế gian chỉ xuất hiện sáu vị A La Hán, năm trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu và Ðức Thế Tôn. Ðây quả thật là một nguồn gợi cảm vô cùng thích thú nếu ta hình dung quang cảnh vườn Lộc Giả gần Vārānasī, nơi đó Ðức Thế Tôn mở lời thuyết giảng kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, trước Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đang chăm chú lắng tai nghe, và thành tựu Ðạo Quả A La Hán, chấm dứt mọi ô nhiễm. Chúng ta hãy hình dung quang cảnh nầy. Hết Lòng Thành Kính Ðảnh Lễ Sáu Vị A La Hán Hai ngàn năm trăm năm mươi hai năm trước, vào ngày thứ năm hạ tuần tháng Bảy DL. Ðức Thế Tôn thuyết giảng thời Pháp về kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, cho Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu. Lắng tai nghe thời Pháp và suy gẫm về lời giáo huấn, tất cả năm vị đều giải thoát ra khỏi mọi ô nhiễm, chứng ngộ Ðạo Quả A La Hán. Chúng con xin chắp hai tay lên trán, thành tâm kỉnh mộ đảnh lễ bậc Toàn Giác và Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, là sáu vị A La Hán đầu tiên vào thời buổi sơ khai của Phật Giáo, hoàn toàn giải thoát khỏi mọi ô nhiễm. Kết Luận Ước mong tất cả quý vị độc giả, do tâm thành kính chăm chú lắng nghe bài giảng về kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, chuyên cần quán chiếu năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đúng theo lời dạy, ghi nhận ngay khoảnh khắc mà nó khởi sanh, nhận thức rằng "đây không phải của tôi, không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi," và hiểu biết đúng rằng nó không ngừng sanh diệt, rằng nó là vô thường, khổ, vô ngã, và do đó sớm sủa thành tựu Niết Bàn, chấm dứt mọi đau khổ qua Ðạo và Quả. Lành thay! Lành thay! Lành thay! -ooOoo- from https://theravada.vn/chuong-viii-thuan-hoa-tue-minh-sat/ MƯỜI MỘT PHƯƠNG THỨC PHÂN TÁCH NGŨ UẨN -ooOoo-
Trên đây là lời dạy phân tách quán niệm thọ uẩn theo mười một phương thức, nhằm mục đích làm sáng tỏ những đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã. Nơi đây, thọ trong quá khứ có nghĩa là những thọ cảm được kinh nghiệm trong những kiếp sống đã qua cũng như những cảm thọ được kinh nghiệm trong những ngày, những tháng, những năm trước đây trong chính kiếp sống nầy. Ðây cũng là những cảm thọ vừa kinh nghiệm trong thời gian trước đây, ngày hôm nay. Lẽ dĩ nhiên tất cả những cảm thọ trong quá khứ ấy đã chấm dứt, không còn hiện hữu, nhưng đối với người chấp ngã mạnh mẽ, điều ấy không dĩ nhiên; họ khư khư chấp rằng chính cái tự ngã đã kinh nghiệm những cảm thọ trước đây vẫn còn tiếp tục kinh nghiệm trong hiện tại. Theo quan kiến của họ, tất cả những thọ cảm phát sanh đến mình trước đây trong kiếp nầy không chấm dứt và biến tan. Họ tin tưởng rằng cái tự ngã thích thú với những thọ cảm trước đây vẫn còn hoan hỷ thích thú với nó trong hiện tại. Thọ Cảm Kinh Nghiệm Trong Ba Thời Nếu những thọ khổ như gồng cứng, nóng, hoặc đau nhức, phát hiện trong khi quán niệm di động phồng xẹp ở bụng, hành giả liền ghi nhận. Khi ghi nhận như thế, thọ cảm khó chịu dần dần suy giảm, bớt đau nhức, rồi tan biến. Khi tâm định thật sự đặc biệt dõng mãnh người hành thiền sẽ thấy rằng mỗi khi ghi nhận thì cơn đau liền chấm dứt. Nhận thức như vậy, hành giả tự bản thân chứng nghiệm rằng những thọ cảm không thường còn, không kéo dài đến một giây đồng hồ, mà luôn luôn nhanh chóng sanh diệt. Không phải chỉ các thọ uẩn trong những kiếp sống quá khứ không tồn tại đến hiện tại, mà chính những cảm thọ trước đây trong kiếp nầy cũng không còn. Những thọ cảm phát hiện chỉ trong khoảnh khắc trước đây cũng không còn hiện hữu. Người hành thiền có chánh niệm chứng nghiệm tất cả những điều nầy. Vị ấy thấy rằng thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký được cảm nhận trong khoảnh khắc hiện tại đều không ngừng sanh rồi diệt. Do đó, có thể suy diễn rằng những cảm thọ sẽ phát sanh trong tương lai cũng sẽ tan biến và chấm dứt ngay vào lúc vừa phát sanh. Trong thời gian hành thiền, công phu quán niệm xảy diễn như sau:
Ðó là phương thức mà các cảm thọ trong quá khứ, hiện tại và vị lai được nhận thấy vừa khi ta ghi nhận. Còn một phương pháp khác để quán niệm những cảm thọ trong quá khứ và vị lai bằng cách suy diễn từ những cảm thọ trong hiện tại: "Cũng y hệt như trong hiện tại những cảm thọ vô thường -- lạc, khổ và vô ký -- chấm dứt ngay khi vừa được ghi nhận, những cảm thọ trước đó cùng thế ấy cũng hoại diệt biến tan vào lúc vừa phát sanh, và như vậy cũng vô thường, khổ và vô ngã. Những cảm thọ sẽ phát sanh trong tương lai cũng hoại diệt vào lúc vừa phát sanh cùng thế ấy, và như vậy cũng là vô thường, khổ, vô ngã." Chính ta đã nhận thấy những cảm thọ của chúng ta hoại diệt ra sao, giờ đây hãy suy diễn xem thọ cảm của những người khác trong toàn thể thế gian: "Cũng như những thọ cảm của chính ta, chấm dứt và biến tan khi vừa niệm đến, những thọ cảm của người khác trong toàn thể thế gian cũng sẽ chấm dứt và biến tan. Những cảm thọ ấy cũng là vô thường, khổ và vô ngã." Những Cảm Thọ Bên Trong Và Bên Ngoài "Cũng như sắc uẩn được quán sát dưới hai sắc thái, bên trong và bên ngoài, sắc pháp bên trong không trở thành sắc pháp bên ngoài và ngược lại, cùng thế ấy, thọ uẩn cũng nên được quán sát dưới hai sắc thái, bên trong và bên ngoài," sách Visuddhimagga, Thanh Tịnh Ðạo, dạy như vậy. Thọ cảm từ bên trong không di chuyển ra bên ngoài; thọ cảm từ bên ngoài không nhập vào trong. Phải quán niệm như vậy. Câu hỏi được nêu lên là: Nói như vậy phải chăng có nghĩa là những cảm thọ từ bên trong ta không nhập sang qua thân của người khác và những cảm thọ của người khác không nhập sang thân ta? Không ai tin rằng thọ cảm di chuyển từ thân người nầy sang qua thân người khác. Do vậy phương thức quán chiếu nói trên không có nghĩa như thế. Nó chỉ có nghĩa là sự đổi thay đối tượng, từ đối tượng bên trong ra đối tượng bên ngoài, hay ngược lại, từ bên ngoài vào trong. Khi thọ cảm phát sanh tùy thuộc một đối tượng từ bên trong chấm dứt và được thay thế bằng cảm thọ phát sanh do đối tượng bên ngoài, người ta thường nghĩ rằng cảm thọ bên trong đã trở thành cảm thọ bên ngoài. Ngược lại khi những thọ lạc hay thọ khổ do những đối tượng từ bên ngoài tạo duyên được thay thế bằng những thọ cảm do đối tượng bên trong tạo duyên, người ta tin rằng cảm thọ bên ngoài đã trở thành cảm thọ bên trong. Cùng thế ấy, khi những thọ cảm phát sanh từ một đối tượng ở xa biến đổi trở thành những thọ cảm phát sanh tùy thuộc một đối tượng gần, người ta tin rằng thọ cảm kia di chuyển từ xa đến gần và ngược lại, từ gần đi xa. Do đó, nơi đây, điều nầy có nghĩa là sự thay đổi đối tượng -- bên trong và bên ngoài, gần và xa -- tùy thuộc theo đó cảm thọ phát sanh. Người hành thiền chuyên cần quán niệm những hiện tượng sắc và danh ngay vào lúc chúng phát sanh, ghi nhận cơn đau nhức khi thọ khổ khởi sanh trong thân. Trong khi ghi nhận như vậy nếu tâm hướng về một đối tượng bên ngoài và thọ lạc hay thọ khổ kế đó khởi phát. Những cảm thọ nầy phải được ghi nhận như thọ hỷ hay thọ ưu. Như vậy, trong lúc cẩn trọng ghi nhận, thọ khổ được ghi nhận lúc sơ khởi không di chuyển từ trong ra ngoài, mà chấm dứt ngay bên trong. Rồi sự chú ý chuyển sang một đối tượng bên ngoài và đối tượng bên ngoài nầy tạo duyên làm khởi sanh thọ cảm mới. Như thế, hành giả thông hiểu những hiện tượng. Vị ấy cũng thấu hiểu đầy đủ tiến trình ngược lại; tức là, thí dụ như thọ lạc sơ khởi phát sanh từ một đối tượng bên ngoài chấm dứt, sau đó thọ khổ mới phát sanh từ một đối tượng bên trong. Cảm thọ bên trong không di chuyển ra ngoài; cảm thọ bên ngoài không di chuyển vào trong. Thọ khởi sanh và chấm dứt ngay trong khoảnh khắc trở thành, và như vậy là vô thường, khổ, và vô ngã. Thọ Cảm Thô Kịch Và Vi Tế Trong khi đang kinh nghiệm những thọ khổ thô kịch, nếu có những thọ khổ vi tế bắt đầu ta có khuynh hướng tin rằng những thọ khổ thô kịch ấy đã đổi thay và trở thành thọ khổ vi tế. Khi đang kinh nghiệm thọ khổ vi tế, nếu cảm nghe thọ khổ thô kịch bắt đầu, ta tin rằng những thọ khổ vi tế đã biến đổi và trở thành thô kịch. Tuy nhiên, đối với vị hành giả cẩn trọng chú niệm, trong mỗi niệm thấy rằng thọ khổ hoại diệt từ phần từ phần, từng giai đoạn, giai đoạn nầy đến giai đoạn khác, và do đó thông hiểu rằng thọ khổ vi tế không biến đổi thành thô kịch, mà thọ khổ thô kịch cũng không biến thành vi tế. Những cảm thọ cũ hoại diệt, những thọ cảm mới khởi sanh và thay thế vào. Ðó là vô thường. Vị hành giả chứng nghiệm những điều ấy qua kinh nghiệm bản thân. Thọ cảm thô kịch không trở thành vi tế, và ngược lại. Những cảm thọ ấy hoại diệt ngay vào lúc vừa khởi phát. Do đó, thọ uẩn là vô thường, khổ và vô ngã. Thọ Cảm Thấp Hèn Và Cao Thượng Những thọ cảm đau nhức khó chịu trong thân được xem là thọ cảm dưới hình thức thấp hèn trong khi cảm thọ hoan hỷ thỏa thích vi tế được xem là cao thượng. Cùng thế ấy, đau khổ, sầu muộn, chán nản, và buồn phiền là thấp hèn, trong khi hạnh phúc và vui vẻ hân hoan là loại cảm thọ cao thượng. Nói cách khác, cảm nghe giận dữ, chán nản buồn phiền, và sầu khổ là cảm thọ thấp hèn, cảm nghe hạnh phúc vui vẻ là thọ cảm cao thượng. Nhưng nơi đây, hoan hỷ thỏa thích trong dục lạc là thấp hèn hơn hạnh phúc của tâm đạo nhiệt thành hướng đến một đối tượng đáng kỉnh mộ như Ðức Phật. Vì kinh nghiệm khác nhau từ cảm thọ nầy đến thọ cảm khác, người ta thường nghĩ rằng thọ cảm thấp hèn đã trở thành cao thượng, hoặc thọ cảm cao thượng đã biến thành loại thọ cảm thấp hèn. Nhưng người hành thiền nhận thức rằng thọ cảm chấm dứt ngay vào lúc được ghi nhận và do đó, thông hiểu rằng cảm thọ cao thượng không trở thành thấp hèn, mà cảm thọ thấp hèn cũng không trở thành cao thượng. Những thọ cảm ấy hoại diệt ngay vào lúc vừa phát hiện và do đó, là vô thường. Tình trạng đau khổ của những thọ cảm thấp hèn không trở thành trạng thái hạnh phúc của thọ lạc cao thượng. Cảm thọ cao thượng cũng không trở thành thọ cảm thấp hèn. Nó chấm dứt ngay vào lúc vừa khởi phát và do đó là vô thường, khổ và vô ngã. Thọ Cảm Xa và Thọ Cảm Gần Chúng ta đã đề cập dong dài đến những cảm thọ xa và gần: những cảm thọ khởi sanh từ những đối tượng ở xa không trở thành những cảm thọ phát sanh do những đối tượng gần; những cảm thọ do những đối tượng gần tạo duyên không trở thành cảm thọ tùy thuộc đối tượng xa tạo điều kiện. Chúng nó chấm dứt ngay vào lúc ta kinh nghiệm và như vậy, là vô thường, khổ và vô ngã. Mười Một Cách Phân Tách Tưởng Uẩn Ðức Thế Tôn dạy: Yā kāci saññā, atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā yā dūre santike vā sabbā saññā netaṁ mama neso hamasmi na meso attāti. Eva metaṁ yathābhūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ. "Tất cả tưởng uẩn, dầu trong quá khứ, vị lai hay hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần phải được xem với sự hiểu biết của chính mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế nầy: 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi'." Ðây là lời dạy nên phân tách tưởng uẩn dưới mười một tựa đề -- quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, thô kịch, vi tế, thấp hèn, cao thượng, xa hay gần -- nhằm vạch rõ cho thấy bản chất vô thường, khổ và vô ngã của nó. Nơi đây tưởng uẩn trong quá khứ có nghĩa là những sự hồi nhớ mà mình kinh nghiệm trong những kiếp sống quá khứ hay trong thời gian đã qua trong kiếp hiện tại. Những sự hồi nhớ mà ta kinh nghiệm trong quá khứ ấy, dĩ nhiên đã chấm dứt, không còn tồn tại hiện hữu. Tuy nhiên, đối với người chấp thủ mạnh mẽ vào tự ngã, điều nầy không phải là dĩ nhiên bởi vì họ quan niệm rằng chính cái ta mà nhận ra và hồi nhớ (tưởng) những sự việc trong quá khứ tiếp tục nhận ra và hồi nhớ sự việc trong hiện tại; rằng tất cả những hành động nhận ra và hồi nhớ đã có trong những kiếp quá khứ hay trong thời gian đã qua trong kiếp sống nầy là do chính một cái ta; và trong kiếp hiện tại nầy cũng vậy. những gì đã được nhận ra và hồi nhớ lúc còn trẻ thơ hay trong thời gian gần đây đều là công việc của một cái ta, chính một cái ta ấy. Vị hành giả chuyên cần giữ chánh niệm, luôn luôn để tâm theo dõi di động phồng xẹp của bụng và những hiện tượng ngay vào lúc cảm thọ, thấy rằng cái tưởng uẩn lúc nghe (tức sự nhận ra và hồi nhớ những âm thanh mà mình đang nghe) tức khắc tan biến vừa lúc được ghi nhận. "nghe, nghe"; cái tưởng uẩn lúc thấy tan biến ngay khi ta ghi nhận, "thấy, thấy", cùng thế ấy sự hồi nhớ và nhận ra ý nghĩ cũng nhanh chóng hoại diệt vừa khi ta ghi nhận. Quán sát như vậy xuyên qua kinh nghiệm bản thân hành giả nhận thức rằng tưởng không thường còn, nó không tồn tại đến một giây đồng hồ và bản chất thiên nhiên của nó là không ngừng hoại diệt. Nói chi đến những sự việc mà ta hồi nhớ trong kiếp quá khứ, ngay trong đời sống nầy, những sự việc mà ta nhớ lại trong giây phút vừa qua cũng đã chấm dứt và biến tan. Ðiều nầy, người hành thiền tự mình có thể nhận thấy. Chí đến những tưởng uẩn vừa khởi sanh trong khoảnh khắc vừa qua cũng đã hoại diệt. Như vậy, hãy hay biết và nhận ra những gì mà ta thấy, nghe và sờ đụng trong giây phút hiện tại. Những sự việc ấy luôn luôn khởi sanh rồi tan biến, lặp đi lặp lại, không ngừng sanh diệt. Chúng ta cũng có thể kết luận rằng những tưởng uẩn (tri giác) trong tương lai cũng sẽ sanh và diệt, tan biến ngay lúc khởi sanh. Trong lúc hành thiền, phân tách tưởng uẩn như sau:
Những tưởng uẩn trong quá khứ và vị lai của toàn thể thế gian cũng được kết luận bao hàm như những tưởng uẩn phát hiện ngay vào lúc được ghi nhận. Cũng giống như những tưởng uẩn, chấm dứt và biến tan vào lúc được ghi nhận trong hiện tại, cùng thế ấy những tưởng uẩn trong quá khứ hoại diệt và tan biến lúc vừa khởi sanh và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã. Cùng thế ấy, những tưởng uẩn trong tương lai cũng sẽ hoại diệt và tan biến vào lúc sanh khởi, và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã. Những tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ những đối tượng trong một người, trong người khác, và trong toàn thể thế gian cũng hoại diệt và tan biến lúc khởi sanh và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã. Bản chất vô thường của tưởng uẩn, hay tri giác, (vốn có đặc tính nhận ra và hồi nhớ sự vật), quả thật hiển nhiên nếu chúng ta chỉ suy gẫm và nhớ lại những điều đã học và đã nhớ trước kia, giờ đây mình quên đi dễ dàng như thế nào. Những tưởng uẩn, nhận ra và hồi nhớ những đối tượng trong thân mình không tồn tại đến tưởng uẩn nhận ra những đối tượng bên ngoài; những tưởng uẩn nhận ra các đối tượng bên ngoài không tồn tại kéo dài đến lúc hồi nhớ các đối tượng bên trong thân -- nó chấm dứt và tan biến ngay lúc khởi sanh, và như thế là vô thường, khổ và vô ngã. Những tri giác nhận ra và hồi nhớ các đối tượng ham muốn và tham ái, sân hận và bực mình, ngã mạn, tà kiến, hoài nghi và ngờ vực, tất cả đều bất thiện. Ðó là những tưởng uẩn thuộc loại thô kịch. Những tri giác liên quan đến tâm đạo nhiệt thành, tin tưởng nơi Ðức Thế Tôn, hồi nhớ một thời Pháp, nhớ lại những lời khuyên bảo và dạy dỗ của thầy hay của cha mẹ là tưởng uẩn thuộc loại tinh tế, tốt đẹp. Ðó là những tưởng uẩn cao thượng. Những tưởng uẩn thô kịch thuộc loại thấp hèn. Nói cách khác, nhận ra và hồi nhớ những đối tượng thô kịch là tưởng uẩn thô kịch, nhận ra những đối tượng tốt đẹp là tưởng uẩn vi tế. Những tưởng uẩn thô không tồn tại đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn vi tế khởi sanh; tưởng uẩn vi tế không kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn thô khởi sanh. Mỗi chặp tưởng uẩn biến tan ngay vào lúc vừa khởi sanh và do đó là vô thường, khổ và vô ngã. Tưởng uẩn thấp hèn không tồn tại kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn cao thượng khởi sanh; cùng thế ấy, tưởng uẩn cao thượng không kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn thấp hèn khởi sanh. Nó biến tan ngay vào lúc khởi sanh và do đó, là vô thường, khổ, và vô ngã. Nhận ra và hồi nhớ những đối tượng vi tế ở xa được gọi là tưởng uẩn xa (tri giác những đối tượng ở xa); nhận ra những đối tượng thô, gần, bên trong người, được gọi là tưởng uẩn gần. Tưởng uẩn xa không tồn tại kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn gần khởi phát; một tưởng uẩn gần không kéo dài đến khoảnh khắc mà tưởng uẩn xa khởi phát. Nó biến tan ngay vào khoảnh khắc vừa phát sanh và do đó, là vô thường, khổ, và vô ngã. Mười Một Cách Phân Tách Hành Uẩn Ðức Thế Tôn tuyên ngôn: Ye keci saṅkhārā atītānāgatapaccuppannā ajjhattā vā bahiddhā vā oḷārikā vā sukhumā vā hīnā vā paṇītā vā ye dūre santike vā sabbe saṅkhārā netaṁ mama, neso hamasmi na meso attāti evametaṁ yathābūtam sammappaññāya daṭṭhabaṁ. "Tất cả hành uẩn, dầu trong quá khứ, vị lai hay hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được xem, với sự hiểu biết của chính mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế nầy: 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi'." Ðây là những lời dạy phân tách quán chiếu hành uẩn theo mười một phương thức để thấy rõ đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã. Nơi đây nên ghi nhận rằng có rất nhiều pháp (dhammas) được sắp xếp dưới danh từ saṅkhārakkhandha, hành uẩn. Chúng ta đã thấy rằng ngoài thọ và tưởng, năm mươi tâm sở còn lại được gọi chung là saṅkhārakkhandha, hành uẩn. Tóm tắt, saṅkhāra, hành, là nguyên động lực nằm phía sau những hành động bằng thân, khẩu, hay ý. Chính hành uẩn là nguyên nhân làm cho ta thay đổi oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm. Saṅkhāra ra lệnh, "Bây giờ hãy đi, bây giờ hãy đứng, bây giờ hãy ngồi." Hành tạo nguyên nhân xuất phát các hành động như co vào, duỗi ra, di chuyển, và cười. Cũng hành, saṅkhāra, làm nguyên nhân đưa đến lời nói, giống như ra lệnh, "giờ đây hãy nói như thế nầy." Hành cũng làm nguyên nhân đưa đến những suy tư, sự thấy và sự nghe. Như vậy, saṅkhāra của những kiếp trước -- muốn đi, muốn đứng, hay muốn nói -- không thể kéo dài đến hành ở kiếp sống nầy, có thể chăng? Có phải chăng tất cả đều tan biến và hoại diệt ngay tại chỗ, vào lúc vừa khởi sanh? Quả thật hiển nhiên rằng ý muốn làm, muốn lấy, hay muốn suy tư trong những kiếp quá khứ hiện nay đã hoàn toàn tan biến. Nhưng đối với những ai tin chắc rằng, "Chính tôi đã làm tất cả những hành động ấy, tất cả những hành động ấy đều do tôi thực hiện," thì họ khư khư chấp vào một tự ngã, một cái ta duy nhất: "Chính tôi đã làm tất cả những hành động trong kiếp sống quá khứ; người hành động trong kiếp hiện tại cũng chính là tôi." Ðối với họ thì "tôi", người hành động mãi mãi thường còn. Vị hành giả có chánh niệm quán chiếu bụng phồng, xẹp, khi nghe cảm giác ngứa thì niệm "ngứa, ngứa". Trong khi niệm như thế, nếu có phát sanh ý muốn gãi chỗ ngứa thì liền niệm, "muốn gãi, muốn gãi." Hành, saṅkhārā, tức là ý muốn gãi, được nhận thấy là biến tan mỗi lần niệm. Cũng như trong khi niệm, "cứng, cứng" vì có cảm giác gồng cứng, nếu có ý muốn co vào hay duỗi ra thì hành giả liền niệm. Như vậy, saṅkhārā, hành, tức ý muốn co vào, duỗi ra, hay đổi oai nghi, hoại diệt và tan biến mỗi khi hành giả niệm đến, và tiếp tục hoại diệt. Cùng thế ấy những hành uẩn muốn đổi oai nghi, muốn nói hay muốn suy tư được thấy không ngừng hoại diệt. Ðối với hành giả, không phải chỉ có những hành uẩn trong những kiếp quá khứ, mà những hành uẩn khởi phát trong hiện tại cũng được thấy là không ngừng hoại diệt. Như vậy, vị hành giả biết rằng những hành uẩn trong những kiếp quá khứ không tồn tại kéo dài đến hiện tại, những hành uẩn trong hiện tại không tồn tại đến tương lai, và hành uẩn trong tương lai sẽ không di chuyển đến một thời gian về sau nữa, chúng hoại diệt vào lúc khởi sanh. Với sự hiểu biết của chính mình, hành giả nhận thức rằng hành uẩn là vô thường, khổ và vô ngã. Trong pháp hành, hành uẩn được quán chiếu như sau:
Với sự hiểu biết về những hành phát sanh trong hiện tại khi được ghi nhận, các hành trong quá khứ, các hành trong tương lai và các hành trong toàn thể thế gian có thể được kết luận bao hàm cùng một thế ấy. Cũng giống như các hành vô thường, muốn làm và muốn ghi nhận trong hiện tại, hoại diệt ngay khi được ghi nhận, cùng thế ấy những hành trong quá khứ cũng hoại diệt và biến tan vào lúc khởi sanh. Như vậy, nó là vô thường, khổ và vô ngã. Cùng thế ấy những hành trong tương lai cũng tan biến vào lúc khởi sanh, và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã. Những hành của một người hay của những người khác và trong toàn thể thế gian đều chấm dứt và tan biến giống như những hành được ghi nhận trong hiện tại. Tất cả đều vô thường, khổ và vô ngã. Sự khác biệt giữa những hành bên trong và bên ngoài cũng giống như sự khác biệt của thọ và tưởng phát sanh do những đối tượng bên trong và bên ngoài, đã được mô tả; những hành phát triển liên quan đến bên ngoài, tức những ý nghĩ muốn thâu đạt hoặc muốn tiêu diệt những đối tượng bên ngoài, hữu tri hữu giác hay vô tri giác, là hành bên ngoài. Những hành liên quan đến hành động bên trong chấm dứt trước khoảnh khắc mà ý nghĩ hướng đến một hành động bên ngoài khởi sanh. Như vậy nó là vô thường, khổ, vô ngã. Cùng thế ấy các hành liên quan đến hành động bên ngoài chấm dứt trước khoảnh khắc mà ý nghĩ hướng đến một hành động bên trong khởi sanh. Nghĩ đến những hành động thô lỗ, kịch cộm, là loại hành thô kịch; suy tư đến một hành động thanh lịch, những việc làm tốt đẹp, là loại hành vi tế. Hành thuộc loại thô kịch không trở thành những hành thuộc loại vi tế, và ngược lại. Nó chấm dứt vào lúc vừa khởi sanh, và như vậy là vô thường, khổ, vô ngã. Tất cả các loại suy tư về những hành động xấu xa là hành thấp hèn. Nghĩ đến và thực hiện những hành động thiện là hành cao thượng. Trong những hành động thiện, công trình nghiêm chỉnh trì giới là cao thượng hơn bố thí, hành thiền cao thượng hơn giữ giới, và hành thiền minh sát cao thượng hơn hành thiền vắng lặng. Các hành thấp hèn không tồn tại kéo dài đến những hành cao thượng; các hành cao thượng cũng vậy, không kéo dài đến lúc hành thấp hèn khởi sanh. Nó chấm dứt và biến tan vào lúc phát khởi và do đó, là vô thường, khổ và vô ngã. Các hành đưa những hành động từ thiện không kéo dài đến khoảnh khắc khởi sanh của các hành đưa đến trì giới, và ngược lại. Các hành nghiêm chỉnh trì giới không kéo dài đến khoảnh khắc khởi sanh của hành uẩn muốn thực hành thiền vắng lặng và ngược lại. Các hành liên quan đến công trình hành thiền vắng lặng không kéo dài đến khoảnh khắc khởi sanh của hành uẩn muốn hành thiền minh sát và ngược lại. Tất cả đều hoại diệt và biến mất vào khoảnh khắc khởi sanh và do đó, là vô thường, khổ, và vô ngã. Suy tư về những hành uẩn có tánh cách thiện và bất thiện quả thật tế nhị, nhưng vị hành giả nhiệt thành chuyên cần có thể tự chính bản thân mình kinh nghiệm, thấy các hành không ngừng hoại diệt như thế nào vào lúc nó khởi sanh. Thí dụ như trong khi ghi nhận bụng phồng xẹp, nếu có những tư tưởng tham ái khởi sanh hành giả liền ghi nhận hiện tượng ấy, "muốn, ham muốn." Niệm như vậy những tư tưởng ham muốn biến tan trước khi kéo dài đến khoảnh khắc khởi sanh một niệm có tánh cách thiện. Vị hành giả đã đạt đến tầng Tuệ Diệt, bhaṅga ñāṇa, hiểu biết hiện tượng nầy rõ ràng, đúng như nó là vậy. Khi vị hành giả cảm nghe hoan hỷ lúc thực hiện một công tác từ thiện thì phải niệm, "hoan hỷ, hoan hỷ". Khi niệm như thế, vị hành giả đã đạt đến tầng Tuệ Diệt, bhaṅga ñāṇa, thấy rõ ràng các hành uẩn của hành động thiện liên quan đến công tác từ thiện biến tan vào khoảnh khắc được ghi nhận. Lại nữa, trong khi niệm di động phồng xẹp ở bụng mà có vọng tưởng phát sanh, phải niệm liền. Niệm như vậy, chặp tư tưởng hành ghi nhận phồng xẹp biến tan mà không kéo dài đến chặp vọng tưởng; chặp vọng tưởng cũng biến tan mà không kéo dài đến khoảnh khắc vọng tưởng kế tiếp. Bằng cách ấy hành giả nhận thức rằng mỗi chặp hành uẩn hoại diệt và biến tan trước khi đến khoảnh khắc khởi sanh của một chặp hành uẩn khác. Nếu hành giả không nhận thấy các hiện tượng như mô tả trên, ắt phải biết rằng vị ấy chưa phát triển đến tầng tuệ giác nầy. Những chặp hành khởi phát từ những đối tượng ở xa không kéo dài đến khoảnh khắc mà những chặp hành do những đối tượng gần phát sanh, và ngược lại. Tất cả đều biến tan vào lúc khởi phát và do đó là vô thường, khổ, và vô ngã. Mười Một Cách Phân Tách Thức Uẩn Ðức Thế Tôn dạy: Yaṁ kiñci viññāṇaṁ atītānāgatapaccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yandūre santike vā sabbaṁ viññāṇaṁ netaṁ mama, neso hamasmi na meso attāti evametaṁ yathābūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabaṁ. "Tất cả thức uẩn, dầu thuộc về quá khứ, vị lai hay hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được thấy với sự hiểu biết của chính mình, đúng như thật sự nó là vậy, như thế nầy: 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi'." Ðây là những lời dạy nhằm phân tách thức uẩn theo mười một phương thức để thấy rõ bản chất vô thường, khổ và vô ngã. Chương VI có giải thích rằng suy niệm về vô thường cũng giống như suy niệm "đây không phải là tôi", suy niệm về khổ cũng giống như suy niệm "đây không phải là của tôi", và suy niệm về vô ngã cũng giống như suy niệm "đây không phải là tự ngã của tôi." Trong bốn uẩn, viññāṇa, thức uẩn hay tâm, là nổi bật hiển nhiên nhất. Trong ngôn ngữ thông thường được xử dụng hằng ngày, những tâm sở như ham muốn và sân hận, được mô tả là "tâm": "tâm ham muốn", "tâm ưa thích", "tâm sân hận". Trong các Bản Chú Giải cũng vậy, đầu tiên các loại nầy cũng được xem là tâm (hay tâm vương), chỉ về sau đó mới được gọi là tâm sở. Nơi đây cũng vậy, chúng ta đề nghị rằng đến một mức độ nào, sẽ gọi đó là tâm. Thức quá khứ có thể là tâm trong những kiếp sống quá khứ, cũng có thể là tâm khởi sanh trong kiếp hiện tại vào thời kỳ niên thiếu, hoặc trong những ngày, những tháng hoặc những năm sau đó, chí đến ngày nay, tâm khởi sanh trước khoảnh khắc hiện tại. Trong những loại tâm ấy có thể có trong quá khứ, rất hiển nhiên rằng cái tâm trong những kiếp sống quá khứ không tồn tại kéo dài đến kiếp sống hiện tại, nó đã chấm dứt từ những kiếp ấy. Nhưng đối với những người chấp ngã mạnh mẽ, tức những người chấp thủ mạnh mẽ vào một cái ta, thì không dễ gì làm cho họ hiểu biết như thế, bởi vì họ chủ trương rằng viññāṇa, thức, là một linh hồn hay tự ngã, một thực thể sống. Theo niềm tin của những vị nầy, khi cơ thể vật chất trong kiếp sống quá khứ hoại diệt và tan rã, viññāṇa, linh hồn, lìa thân ấy và chuyển sinh vào một thân mới, rồi nương tựa luôn vào cái thân mới nầy từ lúc được thọ thai trong lòng mẹ cho đến khi chết, và một lần nữa lìa cái thân đã trở thành cũ nầy, chuyển sinh vào một thân mới khác, trong một kiếp sống mới. Niềm tin nầy đã được mô tả trong câu chuyện của Sāti, ở Chương IV. Tiến Trình Tái Sanh Như các vị hành giả tự bản thân chứng nghiệm, tâm không tồn tại đến một giây đồng hồ, mà luôn luôn khởi sanh và hoại diệt, không ngừng sanh diệt. Tâm sanh và diệt như thế nào đã được mô tả trong khi thảo luận về tiến trình tâm. Như đã được giải thích, trong mỗi kiếp sinh tồn, vào lúc sắp chết maranasaññā vithī, tiến trình tâm khởi phát cùng với kamma, nghiệp, kamma nimitta, hiện tượng của nghiệp, hay gati-nimitta, biểu tượng tái sanh, làm đối tượng. Ðó là phương thức khởi sanh: từ luồng hộ kiếp (bhavaṅga) khởi sanh ý môn hướng tâm (āvajjana citta), cảm nhận những cảm giác. Loại tâm nầy phản ảnh một hành động thiện hay bất thiện đã được thực hiện trong kiếp sống (kamma, nghiệp), hoặc một dấu hiệu hay biểu tượng liên hợp với hành động ấy (kamma-nimitta, biểu tượng của nghiệp), hoặc một biểu tượng của nơi chốn sắp tái sanh vào (gati-nimitta, biểu hiệu lâm chung). Sau khi chặp tâm nầy chấm dứt, luồng tâm tích cực, hay tiến trình javana, chụp lấy đối tượng, phát sanh liên tục trong năm sát na (chặp tư tưởng). Vào lúc luồng xung lực javana chấm dứt, tâm đăng ký tadālambana, duyên theo đối tượng trên, phát sanh trong hai chặp. Sau đó tâm bhavaṅga, hộ kiếp, phát sanh và tồn tại trong một hoặc hai chặp tư tưởng (sát na). Tiếp theo là thức hay tâm chấm dứt một kiếp sống, và chặp tâm bhavaṅga citta cuối cùng nầy được gọi là cuti citta, tử tâm. Khi chặp cuti citta, tử tâm, chấm dứt, tùy theo kamma, nghiệp thiện hay bất thiện phát hiện ngay vào lúc lâm chung, tâm mới phát sanh trong một kiếp mới. Chặp tâm nầy được gọi là paṭisandhi citta, thức, hay tâm-nối-liền, bởi vì chặp tâm nầy nối liền hai kiếp sống, quá khứ và hiện tại. Khi paṭisandhi citta, thức-nối-liền nầy chấm dứt, một loạt những chặp hộ kiếp, bhavaṅga citta, phát sanh. Khi có trần cảnh như hình thể hay âm thanh phát hiện ở lục căn, loạt bhavaṅga citta chấm dứt và lục thức, theo sau là ngũ môn thức như nhãn thức hay nhĩ thức, phát sanh. Ðó là những gì thật sự xảy diễn vào lúc ta thấy hoặc nghe. Theo tiến trình nầy tâm phát sanh từng nơi, nơi nầy rồi nơi khác, lúc ở mắt, lúc ở tai, lúc ở lưỡi, lúc ở mũi v.v... liên tục trong một loạt những tâm (citta) mới, mỗi tâm phát sanh rồi hoại diệt. Chặp tử tâm, cuti citta, của kiếp quá khứ sau cùng chấm dứt ngay tại chỗ, vào lúc ấy. Tâm của kiếp hiện tại là một chặp tâm mới, khởi sanh do kamma, nghiệp quá khứ tạo duyên. Mỗi chập tâm là một chập tâm mới, không phải tâm cũ đổi thành mới. Trong khi chuyên cần quán chiếu hiện tượng phồng xẹp ở bụng hành giả ghi nhận một ý nghĩ vừa khởi sanh. Khi ghi nhận như vậy ý nghĩ hay tâm suy nghĩ bỗng nhiên biến mất. Nhận ra hiện tượng nầy vị hành giả kết luận rằng cái chết có nghĩa là sự chấm dứt chuỗi dài những chặp tâm sau khi chặp tử tâm, cuti citta, chấm dứt. Cùng thế ấy, sự trở thành mới có nghĩa là sự phát sanh đầu tiên của một loạt những chập tâm mới trong một môi trường mới của kiếp sống mới, giống y như trong tâm hiện tại lúc nào cũng có một chập tâm mới phát sanh. Bhavaṅga citta, luồng tâm hộ kiếp, là chuỗi dài những sự khởi sanh, tùy thuộc nghiệp lực (kammic force) của một tâm mới tương tợ, khởi đầu với chính cái tâm sơ khởi vào lúc được thọ thai. Cái tâm hiểu biết những hiện tượng thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư khởi sanh mới mẻ từ những chập tâm trong chuỗi dài đời sống. Như thế đó hành giả hiểu biết tâm khởi sanh và hoại diệt như thế nào và chính tự kinh nghiệm bản thân có thể suy diễn đến tử tâm, cuti citta, và tâm nối liền paṭisandhi citta. Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy Thuộc Hiểu biết rằng cái tâm mới phát sanh tùy thuộc nơi nghiệp, kamma, là hiểu biết Ðịnh Luật Phát Sanh Tùy Thuộc (hay Thập Nhị Nhân Duyên), xuyên qua sự hiểu biết vòng quanh nghiệp-quả. Sách Thanh Tịnh Ðạo, Visuddhi-magga, có ghi như sau: "Ðã phân biện những điều kiện của danh và sắc như thế ấy (rằng không có người hành động, cũng không có người gặt hái hậu quả của hành động, chỉ có những hiện tượng diễn tiến theo nhân và quả) bằng những vòng quanh nghiệp và quả, và đã lìa bỏ tình trạng mơ hồ ("Có linh hồn chăng? có tự ngã chăng?" "Tại sao tự ngã phát khởi?" v.v...) về ba thời kỳ, tất cả các pháp, dhammas, quá khứ, vị lai và hiện tại được người ấy thông hiểu theo kiến thức về tiến trình sanh và tử của mình." Nơi đây, theo cách thức phân biện, "bằng vòng quanh của nghiệp, kamma" bao gồm những nguyên nhân như vô minh, avijjā, ái (taṅhā), thủ (upādāna) và hành (saṅkhāra). Thêm vào đó, bằng cách phân biện thức-nối-liền đầu tiên và tử tâm cuối cùng, tất cả những tâm đã phát sanh ở khoảng giữa trong suốt kiếp sống trở thành rõ ràng thông hiểu. Cùng thế ấy, bằng cách hiểu biết tất cả những tâm trong kiếp sống hiện tiền, các loại tâm trong những kiếp quá khứ và vị lai cũng được phân tách và biện giải. Hiểu biết tâm là hiểu biết những tâm sở đồng phát sanh và cũng hiểu biết căn môn mà tâm ấy tùy thuộc. Do đó sách Thanh Tịnh Ðạo, Visuddhimagga viết, "tất cả các pháp, dhammas, quá khứ, vị lai và hiện tại đều được vị ấy thông hiểu." Thức Uẩn Trong Ba Thời Kỳ Bởi vì hiểu biết rằng bắt đầu từ thức tái sanh trở đi, liên tiếp một loạt những chặp tâm phát sanh và hoại diệt, vị hành giả nhận thức rõ ràng rằng tâm trong những kiếp quá khứ chấm dứt ngay tại chỗ, không tồn tại kéo dài đến tận kiếp nầy. Vị ấy cũng thấy rõ ràng rằng tâm trong kiếp sống hiện tại chấm dứt ngay tại chỗ vào lúc phát sanh. Do đó hành giả ở trong vị trí phân biện rõ ràng quá khứ, vị lai và hiện tại với sự hiểu biết mà tự cá nhân mình chứng nghiệm. Ðối với hành giả, nếu trong khi niệm phồng xẹp ở bụng mà có những ý nghĩ phát sanh, liền niệm, "suy nghĩ, suy nghĩ". Niệm như vậy ý nghĩ tan biến. Khi nghe, hành giả niệm, "nghe, nghe", và nhĩ thức tự nhiên biến tan. Không như người đời thường nghĩ, vị ấy không nghĩ rằng mình vẫn còn tiếp tục nghe lâu dài những âm thanh ấy, mà thấy rằng mình nghe từng phần, từng giai đoạn xen kẻ nhau -- nghe, mất, nghe, mất -- nhĩ thức sanh diệt từng chặp. Cùng thế ấy khi niệm thân xúc, hành giả thấy xúc giác từng chặp nhanh chóng biến tan. Khi tâm định đặc biệt vững mạnh hành giả cũng thấy nhãn thức liên tục sanh diệt rất nhanh chóng trong một chuỗi dài. Tỷ thức và thiệt thức cũng phải được quán chiếu cùng một thế ấy. Khi niệm, ý thức cũng được thấy là xen kẻ nhau sanh diệt nhanh chóng. Tóm tắt, với mỗi niệm, cả hai -- đối tượng và tâm hay biết đối tượng -- đều được thấy là khởi sanh và hoại diệt một cách nhanh chóng. Bằng cách ấy hành giả đã thấy rõ rằng nhãn thức không tồn tại kéo dài đến khoảnh khắc mà mình niệm suy nghĩ, hay niệm nghe, mà tan biến ngay vào lúc thấy, hay lúc nghe, tức khi nhãn thức hay nhĩ thức khởi sanh. Vị ấy nhận thức rằng nó là vô thường. Cùng thế ấy, tâm niệm, tâm suy tư và tâm nghe không kéo dài đến lúc thấy, mà biến tan ngay vào lúc niệm, suy nghĩ và nghe. Do đó hành giả nhận thức rằng nó là vô thường:
Bằng cách ấy, tự cá nhân nhận thấy thức uẩn sanh và diệt nhanh chóng như thế nào trong thân mình, hành giả có thể suy diễn rằng, cũng giống như loại thức đã được ghi nhận, tất cả những thức còn lại để được ghi nhận, những thức trong những người khác và trong toàn thể thế gian, cũng đều như thế ấy, không ngừng sanh diệt. Chúng ta đã quan sát tất cả những loại thức, nhưng còn phải quán sát thức dưới những sắc thái khác như bên trong và bên ngoài. Tâm có đối tượng bên trong không kéo dài đến tâm có đối tượng bên ngoài; tâm có đối tượng bên ngoài không kéo dài đến tâm có đối tượng bên trong. Khi nó chụp nắm một đối tượng thì liền chấm dứt và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã. Tâm sân hận là thô kịch; so với tâm sân các loại tâm khác là vi tế. Trong các tâm sân, những loại đủ hung tợn để sát hại sanh linh, hành hung kẻ khác hay hủy hoại tài sản của người, hoặc dùng những lời lẽ thô lỗ mắng nhiếc và hăm dọa người, là thô kịch; tâm sân dưới hình thức bực tức thông thường là sân vi tế. Tâm tham ái thì mềm dịu hơn tâm sân, nhưng một tâm tham đủ mạnh để làm nguyên nhân xúi giục trộm cắp hay có những hành động sai quấy, thấp hèn, ăn nói cộc cằn thô lỗ, là tâm tham thô kịch. Ham muốn hay ước mong thông thường là tâm tham vi tế. Tâm si mê càng mềm dịu hơn tâm tham ái và tâm sân hận, nhưng tâm si mê tìm tòi bắt lỗi hay tỏ ra không tôn trọng Phật, Pháp, Tăng là thô kịch. Tâm hoài nghi thông thường hoặc hôn trầm phóng dật là tâm si vi tế. Tinh tế hơn tất cả những tâm bất thiện kể trên là những tâm thiện, và trong những tâm thiện, thỏa thích say mê là thô kịch, trong khi ấy tâm thản nhiên tự tại và an trụ là vi tế. Vị hành giả chuyên cần giữ chánh niệm theo dõi di động phồng xẹp ở bụng nhận biết những loại tâm thô kịch hay vi tế -- rằng tâm thô kịch không tồn tại kéo dài đến khoảnh khắc khởi sanh của tâm vi tế, và tâm vi tế không kéo dài đến khoảnh khắc khởi sanh của tâm thô kịch. Các tâm ấy chấm dứt và biến tan ngay vào lúc khởi sanh. Quán Chiếu Tâm Theo Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta) Trong khi quán niệm di động phồng xẹp ở bụng, nếu có tâm khởi sanh liên hợp với tham ái, hành giả liền ghi nhận tâm có tham. Ðó là hiểu biết tâm phát sanh liên hợp với tham ái đúng như thật sự nó là vậy, theo kinh Tứ Niệm Xứ, Satipaṭṭhāna Sutta -- sa rāgaṁ vā cittaṁ sa rāgaṁ cittanti pajānāti. Khi niệm như vậy, tâm tham ái chấm dứt và theo liền sau đó là một luồng những loại tâm liên tục tiếp diễn gồm tâm thiện, kusala citta, của niệm và tâm hành (kiriyā), tâm quả (vipāka) và luồng xung lực thiện (kusala javana) liên quan đến hành động tại thế thấy, nghe v.v... Những tâm thiện, hành và quả ấy được ghi nhận vào lúc khởi sanh như thấy, nghe, sờ đụng và hiểu biết. Ðó là hiểu biết tâm thiện, hành, quả và bất định, không có tham, đúng như nó thật sự là vậy, theo câu vītarāgaṁ vā cittaṁ vītarāgaṁ cittanti pajānāti của kinh Satipaṭṭhāna Sutta, Tứ Niệm Xứ. Ghi nhận và hiểu biết tâm có tham cũng như tâm không có tham bằng cách quán chiếu tâm với chánh niệm. Nơi đây, Sư (Ngài Mahasi) muốn đề cập đến lối trình bày của Bản Chú Giải. Bản Chú Giải định nghĩa tâm có tham ái là tám loại tâm kết hợp với căn tham. Ðó là liệt kê các tâm tham. Như vậy nếu là tâm tham thì nó phải là một trong tám loại tâm bắt nguồn từ luyến ái. Tuy nhiên, chỉ xem sự khởi sanh của tám loại tâm bắt nguồn từ luyến ái là savāga, tâm với tham ái, không hàm ý rằng đó là quán chiếu tâm với chú niệm. Lại nữa, vītarāga, tâm không có tham ái, được định nghĩa là tâm thiện tại thế, và tâm bất định. Bản Chú Giải nói rằng bởi vì tâm siêu thế (supramundane citta) là đối tượng của tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) nên không được xếp vào cùng hạng với vītarāgaṁ, tâm không có tham ái, vītadosa, tâm không có sân hận, hoặc vītamoha, tâm không có si mê. Cùng thế ấy, hai loại tâm bắt nguồn từ căn sân và hai loại bắt nguồn từ căn si cũng không được xếp vào loại tâm không có tham ái. Một lần nọ, khi chưa có được tuệ giác nào trong thiền tập, Sư còn bị hoài nghi, mãi phân vân không biết tại sao các loại tâm bắt nguồn từ căn sân và căn si lại không được xếp vào loại tâm không có tham ái. Chỉ khi phát triển trí tuệ qua pháp hành Sư mới thông hiểu rằng lời phân giải của Bản Chú Giải là tự nhiên và đúng như thế nào. Khi tâm có tham ái được ghi nhận, nó liền chấm dứt và liền theo đó chỉ phát sanh có tâm thiện, tâm hành, tâm quả và tâm bất định; quả thật khó mà có tâm sân và tâm si. Do đó vào lúc bấy giờ chỉ có tâm thiện (kusala citta) trong khi ghi nhận, hoặc chỉ có tâm quả bất định (vipāka abyākata), ý môn hướng tâm bất định (āvajjana abyākata) nằm trong thức và luồng xung lực (javana) được quán chiếu. Như vậy, định nghĩa của danh từ vītarāga, tâm không có tham ái, là tâm bất định có tánh cách thiện (kusala abyākata citta, tâm thiện bất định) quả thật rất tự nhiên và rất đúng với những gì người hành thiền cảm nhận xuyên qua kinh nghiệm bản thân. Khi sân hận khởi sanh trong lúc mình niệm phồng xẹp ở bụng, hành giả phải ghi nhận. Tâm sân nhanh chóng biến tan, và thay vào đó khởi sanh tâm thiện của hành động ghi nhận, những tâm bất định, và luồng xung lực (javana) có tánh cách thiện, của sự thấy v.v... Bằng cách ghi nhận hành giả cũng hiểu biết rằng tâm ấy không có sân. Khi tâm có si, tức có hoài nghi hay phóng dật, hành giả ghi nhận như thường lệ, và nó tan biến. Thay vào đó là tâm thiện của sự ghi nhận, những tâm bất định, và luồng xung lực (javana) của sự thấy. Bằng cách ghi nhận, hành giả thông hiểu rằng tâm ấy không có si, vītamoha. Lại nữa, khi phóng dật và lo âu khởi sanh trong lúc hành giả niệm phồng xẹp ở bụng, những loại tâm ấy phải được ghi nhận, "phóng dật", "lo âu". Nó liền biến tan và chánh niệm khởi sanh thay vào đó. Hành giả ghi nhận tâm niệm ấy trước khi trở về niệm phồng xẹp ở bụng. Lần khác, trong khi ghi nhận phồng xẹp ở bụng, nếu có lo âu và phóng dật khởi sanh, hành giả ghi nhận "lo âu", "phóng dật". Khi niệm như thế tình trạng phóng dật biến tan, tâm trở nên yên tĩnh và vắng lặng. Trạng thái tâm nầy cũng phải được ghi nhận. Khi tâm định vững chắc tốt đẹp và an trụ trên đối tượng được quán chiếu, tâm an tĩnh ấy cũng tự nhiên được hay biết. Khi lo âu khởi sanh hành giả ghi nhận, và tâm trở nên an tĩnh trở lại. Tất cả những trạng thái đổi thay ấy của tâm đều được hành giả chuyên cần chú niệm. Một cái tâm được ghi nhận và quán chiếu thì gọi là vimutta, không ô nhiễm. Tâm mà còn cần phải được ghi nhận và quán chiếu thì gọi là avimutta, chưa giải phóng, còn ô nhiễm. Hành giả ghi nhận tất cả những trạng thái tâm ấy. Ðó là phương thức mà thức uẩn phải được quán chiếu đúng theo lời dạy của Ðức Thế Tôn trong kinh Niệm Xứ, Satipaṭṭhāna Sutta. Theo pháp hành nầy, những tâm có tham ái và khát vọng, sân hận, phóng dật, và lo âu, tất cả đều thuộc loại thô kịch. Khi không chứa đựng những loại tâm thô kịch ấy, ắt có phát sanh thay vào đó những loại tâm thiện và bất định, vốn là những loại tâm vi tế. Do vậy, người hành thiền chuyên cần quán chiếu những hiện tượng khởi sanh, nhận thức rằng tâm thô kịch không tồn tại kéo dài đến khoảnh khắc mà tâm vi tế khởi sanh v.v... Nó biến tan ngay tại chỗ, vào khoảnh khắc khởi sanh, và như vậy là vô thường, khổ và vô ngã. Phương thức phân hạng tâm, hay thức, theo tánh cách thấp hèn hay cao thượng cũng giống như cách xếp loại các hành. Tâm bất thiện thấp hèn không tồn tại kéo dài đến lúc tâm thiện bất định khởi sanh; tâm thiện cao thượng cũng không kéo dài đến tâm bất thiện thấp hèn. Nó chấm dứt ngay vào lúc khởi sanh và do đó là vô thường, khổ và vô ngã. Tâm thiện bố thí không tồn tại kéo dài đến lúc tâm thiện trì giới, hay thiền định khởi sanh. Tâm thiện trì giới không kéo dài đến lúc tâm thiện thiền chỉ khởi sanh, và ngược lại. Tâm thiền chỉ không kéo dài đến tâm thiền minh sát; tâm thiền minh sát không kéo dài đến tâm thiền chỉ. Tất cả đều chấm dứt và biến tan vào lúc khởi sanh. Ðối với người thường, không quen quán chiếu và ghi nhận hiện tượng cảm giác thì khi nhìn một đối tượng từ xa di chuyển đến gần, họ nghĩ rằng cái tâm mà nhìn đối tượng từ xa, chính cái tâm ấy di chuyển đến gần họ. Khi nhìn một đối tượng ở gần di chuyển đi xa thì nghĩ rằng tâm họ di chuyển từ gần đi xa. Cùng thế ấy, khi nghe một âm thanh gần trong lúc lắng tai nghe một tiếng động từ xa thì cho rằng cái tâm lắng nghe tiếng động từ xa đã di chuyển lại gần; nghe một tiếng động từ xa trong khi lắng nghe một âm thanh gần, thì cho rằng cái tâm mà nghe âm thanh gần đã di chuyển đi xa. Trong khi mũi hửi một mùi ở xa, cảm nghe một mùi từ trong thân mình phát ra, thì nghĩ rằng cái tâm ở xa di chuyển đến gần. Trong khi nghe mùi phát sanh từ thân mình mà có mùi từ ở ngoài đến thì cho rằng cái tâm ở gần đã đi ra xa. Khi cảm nhận xúc giác từ nơi xa, như ở chân chẳng hạn, và có một xúc giác khác ở ngực, cảm giác ở xa hình như di chuyển đến gần, và ngược lại. Trong khi nghĩ đến một đối tượng ở xa mà có ý nghĩ đến một đối tượng gần, thì hình như tâm ở xa di chuyển đến gần, và ngược lại. Tóm tắt, thông thường người ta tin rằng chỉ có một cái tâm thường còn hiểu biết mọi việc, ở xa cũng như ở gần. Vị hành giả ghi nhận tất cả mọi hiện tượng thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư thông hiểu với sự hiểu biết và kinh nghiệm riêng của chính mình, rằng tâm ở xa không di chuyển lại gần; mà tâm ở gần cũng không di chuyển đi xa. Nó chấm dứt và hoại diệt biến tan ngay vào lúc khởi sanh. -ooOoo- from https://theravada.vn/chuong-vii-muoi-mot-phuong-thuc-phan-tach-ngu-uan/ PHÂN TÁCH ÐẶC TÁNH VÔ THƯỜNG -ooOoo-
Trong những chương trước chúng ta đã bàn thảo khá dong dài về thọ cảm nhưng theo bài kinh nầy, đây là phần kế tiếp, nên chúng ta sẽ giải thích thêm một ít. Có ba loại thọ: thọ lạc hay hạnh phúc; thọ khổ hay đau khổ, bất toại nguyện; thọ vô ký, không hạnh phúc cũng không đau khổ. Người thế gian thông thường xem tất cả ba loại thọ ấy là chính mình, là tự ngã, thể chất sống, tồn tại lâu dài và thường còn. Những hình thức dính mắc ấy được gọi là chấp thủ nivāsī attā và chấp thủ vedaka attā. Chấp thủ nivāsī attā là tin tưởng, chấp vào một thực thể thường còn, liên tục tồn tại, hay tự ngã. Người đời thường tin rằng có một thực thể sống, một tự ngã thường còn trong cơ thể vật chất từ lúc được thọ thai cho đến khi chết và cũng có người tin rằng sau khi chết cái tự ngã ấy vẫn còn tồn tại. Ðó là chấp thủ nivāsī attā. Họ tin rằng chính cái thực thể thường còn trong cơ thể ấy cảm nhận những thọ lạc hay thọ khổ; lúc nầy tự ngã ấy cảm nghe thỏa thích trong tâm và trong thân, lúc khác cũng tự ngã ấy có những thọ cảm phiền muộn, không thoải mái. Như vậy họ tin rằng những cảm thọ ấy trường tồn, bền vững lâu dài. Trong thực tế, khi có thọ lạc thì không có thọ khổ hay thọ vô ký; khi có thọ khổ thì không có thọ lạc hay thọ vô ký. Cùng thế ấy, khi có thọ vô ký thì không có thọ lạc hay thọ khổ. Không có cảm thọ nào tồn tại mãi mãi. Dầu thọ lạc, thọ khổ hay thọ vô ký, những cảm thọ ấy, phát sanh tùy hợp theo những điều kiện, sanh khởi tùy duyên, và chỉ tồn tại trong khoảnh khắc rồi tan biến. Một người chưa được rèn luyện đầy đủ không thể theo dõi vào lúc nó khởi sanh, có cảm tưởng rằng ba thọ cảm ấy hiện hữu cùng một lúc. Như vậy, trong khi có những thọ cảm đau nhức trong cơ thể mà nghe những tin vui, ta lấy làm thỏa thích. Hoặc khi đang thỏa thích với những cảm thọ thoải mái dễ chịu ở thân, tình cờ ta nghĩ nhớ đến một diễn biến bất hạnh, và cảm nghe bực mình phiền muộn. Trong những trường hợp tương tợ, thông thường ta tin rằng cả hai, thọ lạc và thọ khổ, cùng được cảm nhận vào một lúc. Ðó là bởi vì ta thiếu khả năng phân biệt rành mạch hai thọ cảm, hay hai loại tâm liên tục tiếp nối. Trong thực tế, mỗi loại thọ phát sanh và chấm dứt rồi một loại thọ khác mới khởi phát. Như vậy trong khi vị hành giả đang chuyên cần chú niệm những hiện tượng phồng xẹp mà ghi nhận có sự đau nhức khởi sanh ở một nơi nào trong thân thì phải cẩn trọng gom tâm vào nơi ấy và liên tục niệm "đau, đau". Nếu tâm định của hành giả đủ vững mạnh, cơn đau nhức khó chịu sẽ dần dần suy giảm khi hành giả niệm và có thể tan biến luôn. Ðối với vài người, cơn đau hoàn toàn và mau chóng tiêu diệt như có ai lấy tay bóc cái đau vứt đi. Khi không còn thọ lạc hay thọ khổ để niệm, hành giả liền quay trở về ghi nhận những hiện tượng vô ký trong di động phồng xẹp của bụng. Ðó là niệm thọ vô ký. Trong khi niệm thọ vô ký như thế, nếu có thọ lạc phát sanh, hành giả phải hướng tâm về cảm thọ ấy và ghi nhận như thường lệ. Cùng thế ấy, nếu có thọ khổ phát sanh, phải hướng tâm về chú niệm. Ghi nhận những cảm thọ, lạc, khổ và vô ký như thế ngay vào lúc nó khởi sanh, hành giả tự mình xác nhận rằng nó không tồn tại lâu dài. Ðó là phân tách và biện giải, phân biện mỗi loại thọ khi nó phát sanh, trong chuỗi dài những khoảnh khắc hiện tại, hay "hiện tại liên tục". Vị hành giả đã tiến đến tuệ sanh diệt và tuệ diệt (udayabbaya và bhaṅga ñāṇa) nhận thấy thọ cảm tan biến và chấm dứt từng đoạn, từ chút, từ chút. Những hiện tượng phồng xẹp thông thường cũng hoại diệt từng đoạn, từ chút, từ chút. Khi thọ lạc hay thọ khổ phát hiện, nó phát hiện riêng biệt, hết loại thọ nầy đến loại kia chớ không phải một loạt những hiện tượng liên tục tiếp nối trong một tiến trình. Cùng thế ấy khi thọ khổ phát sanh với thọ vô ký, hai loại phải được ghi nhận như hai loại thọ riêng biệt. Vị hành giả quán niệm mỗi cảm thọ bằng cách ấy sẽ hiểu biết rằng mỗi thọ cảm phát sanh và tức khắc hoại diệt. Ðiều nầy chỉ rõ rằng thọ không tồn tại lâu dài. Ðó là hiểu biết những hiện tượng từng phần, từng đoạn nhỏ trong ý nghĩa khoảnh khắc hiện tại. Hành giả quán niệm những hiện tượng phồng, xẹp và những thọ cảm, đang làm vậy với mục đích nhận thấy mỗi hiện tượng, từng đoạn, từng phần, từ chút từ chút, trong khoảnh khắc hiện tại. Do đó hành giả thấy rõ ràng rằng các thọ -- lạc, khổ và vô ký -- đối với trần cảnh liên hệ, liền tức khắc tan biến ngay vào lúc vừa khởi sanh, và tự kinh nghiệm bản thân hành giả nhận thức bản chất vô thường của tất cả những cảm thọ. Ðể giải đáp câu hỏi, "thọ là thường còn hay vô thường?" Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, vốn đã chứng đắc tầng Nhập Lưu xuyên qua phương cách quán niệm như vậy, trả lời theo kinh nghiệm riêng của chính mình, "Bạch Ngài, là vô thường." Cơn đau khổ không thể chịu đựng trong thân là thường còn hay vô thường? Cơn đau không thường còn bởi vì trước đây không có, nó khởi sanh vào một lúc nào, rồi trong khi hành giả niệm "đau, đau," thì nó tan biến. Ðối với người hành thiền mà tâm định khá dõng mãnh, mỗi cơn đau sẽ hoại diệt một khi được niệm đến. Khi một cảm thọ tan biến, một thọ mới phát hiện chỉ để rồi nhanh chóng hoại diệt. Khi tâm định thật rất vững mạnh, thọ lạc có thể được nhận thấy trong thân. Khi những cảm thọ nầy được ghi nhận, nó liền biến mất. Tan biến như vậy, những thọ lạc ấy là thường còn hay vô thường? Ðôi khi có những thọ khổ hay lo âu phát hiện; những loại thọ nầy cũng biến mất mỗi khi hành giả niệm đến. Nó là thường còn hay vô thường? Trong trường hợp tương tợ, một hình ảnh bất hạnh đưa đến thọ khổ, và thọ khổ nầy cũng tan biến mỗi khi được ghi nhận. Thọ lạc hay thọ khổ phát khởi qua thính giác, tỷ giác hay vị giác cũng tan biến mỗi khi hành giả niệm đến. Khi ghi nhận một sự việc không đặc biệt khổ hay lạc, một đối tượng trung tính, không có tánh cách lạc hay khổ như di động phồng lên và xẹp xuống của bụng, loại thọ được cảm nhận là vô ký, và thọ vô ký nầy cũng tan biến mỗi khi được niệm đến. Như vậy nó là thường còn hay vô thường? Tất cả ba loại thọ: lạc, khổ và vô ký, đều vô thường. Khi nhận thức ba loại thọ nầy là vô thường cũng nhận thức rằng nó là khổ, vô ngã, nó chỉ là những hiện tượng. Ðức Thế Tôn tiếp tục nêu lên câu hỏi: "Cái gì vô thường là khổ hay lạc" -- "Bạch Ngài là khổ." Trước đây chúng ta đã đề cập dong dài đến điểm nầy, giờ đây chỉ cần vắn tắt sơ lược. Người ta ưa thích thọ lạc, và xem đó là trường tồn, bất biến. Ðến khi thấy những cảm thọ tan biến trong từng khoảnh khắc, không tồn tại đến một phần mười của một giây đồng hồ, thì ta không còn khát khao thèm muốn nó nữa. Chỉ vì muốn thỏa thích hưởng thụ cái được gọi là hạnh phúc mà người ta dành hết thì giờ để chạy theo rượt bắt nó, không phải một giờ, không phải một ngày, một tháng hay một năm, mà suốt cuộc sống. Trong cuộc chạy theo rượt bắt hạnh phúc, họ phải đương đầu với cái chết. Không có gì khác đáng tin cậy mà ta có thể nương tựa. Dầu không thể thành tựu hạnh phúc hằng mong mỏi, ta cũng tìm đủ phương cách để tránh khỏi những hoàn cảnh bất hạnh hay những thọ khổ, và tự giữ mình trong tình trạng vô ký, không lạc không khổ. Chí đến khi đã tìm được thọ vô ký, loại cảm thọ không lạc cũng không khổ, tình trạng đau khổ trong thân và sợ sệt lo âu trong tâm vẫn có thể khởi sanh, và nó phát hiện bởi vì thọ lạc và thọ vô ký không thường còn. Như vậy thọ lạc và thọ vô ký cũng không đáng được tin cậy. Ta không thể tin chắc vào đó. Trong khi chạy theo nó, là đau khổ; khi nó tan biến, cũng là đau khổ, bởi thọ khổ sẽ thay vào đó, đặc biệt là sau khi thọ lạc hoại diệt, trong lúc mà ta đang chìm sâu trong hoàn cảnh âu sầu thất vọng. Thí dụ như trường hợp người làm cha mẹ, đang vui thú trong hạnh phúc êm đềm với con cái, bỗng nhiên mất một người con vì chết chóc hay hoàn cảnh phải chia ly; như một gia đình đang sum hợp vui vầy bỗng nhiên phải phân tán chia lìa; hay một người đang sống thoải mái tiện nghi với tiền bạc của cải sung túc, bỗng nhiên mất hết tài sản sự nghiệp. Tất cả những trường hợp tương tợ làm cho người ta đau khổ nặng nề đến đỗi có thể mất cả mạng sống. Như vậy, thọ rất là hiểm nguy khủng khiếp, đáng sợ vì bản chất vô thường của nó. Ðến đoạn kế trong bài kinh Pāli: "Cái gì là vô thường, khổ và luôn luôn phải chuyển biến, có thích hợp không nếu ta xem đó như, 'cái nầy là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi'?" -- "Bạch Ngài không." Ðây là phương cách vấn đáp cùng một loại được dùng để giải thích sắc uẩn (ở phần trước). Sự khác biệt là trong trường hợp sắc uẩn, danh từ hàm xúc chẳng những sắc pháp bên trong cơ thể vật chất của mình mà cũng bao gồm tất cả đối tượng bên ngoài, hữu tri hữu giác cũng như sự vật vô tri giác. Trường hợp thọ uẩn thì bài kinh đặc biệt chú trọng đến các thọ bên trong mình, được chấp thủ rằng đây chính là "tôi". Trong thọ lạc ta lấy làm thích thú tuyên bố, "đây là của tôi". Trường hợp thọ vô ký, vì không có thọ khổ, có bản chất lạc; mặc dầu trạng thái dính mắc không mạnh mẻ lắm nhưng vẫn có một vài hình thức thích thú trong chính sự kiện là nó không lạc không khổ. Thọ khổ, lẽ dĩ nhiên, là không đáng được ưa thích, nhưng nghĩ rằng "chính tôi đang đau khổ" vẫn là chấp thủ vào tự ngã. Dính mắc trong thọ bằng cách ấy đưa đến si mê về bản chất thật sự của đặc tướng vô thường, khổ và phải chuyển biến. Vị hành giả ghi nhận những thọ cảm lúc nó khởi sanh liền thấu hiểu bản chất áp bức, cưỡng bách, của nó. Về sự hay biết cảm thọ của mình, có gì khác biệt giữa người hành thiền và người không hành thiền chăng? Quả thật có sự khác biệt lớn lao giữa người thường, vốn xem thọ là tự ngã, là chính mình -- "Tôi đau khổ; tôi cảm nghe thỏa thích; tôi nghe đau nhức trong khi thỏa thích hưởng thụ thọ lạc; nếu cơn đau chấm dứt, tôi sẽ cảm nghe hạnh phúc," -- trong khi đó người hành thiền hiểu biết từ lúc đầu rằng đó chỉ là tình trạng liên tục khởi sanh và hoại diệt của những uẩn. Khi thọ khổ phát hiện, người hành thiền cảm nhận đó là một cảm thọ không đáng được ưa thích, trong tiến trình liên tục tiếp nối của danh và sắc, đã xen vào. Vị ấy nhận thức rằng đó là một tiến trình sanh diệt khác đã thay thế vào tiến trình mà mình vừa quan sát. Do đó ngay lúc nó vừa phát hiện vị hành giả liền nhận ra bản chất áp bức của nó, giống như một cái gai đâm vào và nằm trong thịt. Một thọ lạc có vẻ là thích thú và tốt đẹp trong khi nó xảy diễn, nhưng bao nhiêu cố gắng để tạo ra và bao nhiêu công phu để bảo trì, gìn giữ không để cho nó mất, chính những công trình ấy là đau khổ. Nếu trong khi chạy theo rượt bắt những thọ lạc ấy mà đã có những hành động bất thiện (akusala kamma) ta còn phải bị sa đọa vào khổ cảnh để gặt hái những quả dữ của nó. Thích thú trong thọ lạc dẫn dắt ta mãi mãi lặn hụp trong vòng quanh những kiếp sinh tồn, mãi mãi chịu cảnh già nua và chết chóc. Khi thọ lạc chấm dứt, tình trạng dính mắc trong đó sẽ đưa đến sầu khổ phiền muộn sâu xa. Do đó thọ lạc phải được xem là đau khổ. Kinh Daṭṭhabba Sutta của bộ Saṁyutta Nikāya (Tạp A Hàm) có mô tả phương cách phải niệm những thọ ấy như sau: Thấy Những Thọ Cảm Ðúng Như Nó Thật Sự Là Vậy Yo sukhaṁ dukkhato adda, dukkha madakkhi sallato, "Một vị tỳ khưu nhìn thọ lạc là khổ, thọ khổ như một gai nhọn và thọ vô ký cũng là khổ, bởi vì tất cả là vô thường." Vị hành giả chuyên cần chú niệm thấy thọ khổ là một sự áp bức giống như gai nhọn đâm vào mình. Thọ lạc được xem là đáng sợ, vì phải chịu bao nhiêu khổ nhọc phiền toái trong khi chạy theo rượt bắt cho được nó, rồi bao nhiêu đau buồn sầu muộn khi mất nó. Thọ vô ký được xem là khổ vì tánh chất vô thường của nó và bao nhiêu cố gắng cần phải có để bảo trì gìn giữ nó lại. Do đó khi được hỏi có thích hợp không nếu xem thọ "Cái nầy là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi" Nhóm Năm Vị liền đáp, "Bạch Ngài, quả thật không thích hợp." Ðức Thế Tôn dạy rằng không nên xem thọ là "của tôi", "tôi", "tự ngã của tôi". Bởi vì Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã chứng đắc tầng Nhập Lưu, lời dạy nầy đối nghịch với sự hiểu biết rằng thọ là thường còn, xem thọ là "của tôi", là "tôi" và hiểu biết sai lầm như vậy đưa đến tham ái và ngã mạn. Ðối với người thường trong dân gian lời dạy nầy đi ngược với tà kiến "đây là tự ngã của tôi" là "chính tôi". Bản Chất Vô Thường Của Tưởng Uẩn Saññā niccā vā aniccā vāti. Aniccā Bhante. Yampanāniccaṁ, dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipari-ṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama esohamasmi eso me attāti. No hetaṁ Bhante. "Tưởng (saññā) là thường còn hay vô thường?" Ðức Thế Tôn hỏi. -- "Bạch Ngài, là vô thường." Tưởng (saññā), hồi nhớ những sự việc đã thấy trước kia. Tưởng là yếu tố chánh trong sự học hỏi và trí nhớ. Người có tưởng uẩn tốt sẽ hồi nhớ lâu dài những gì đã thấy hay đã nghe chỉ một lần. Ðặc tính nhớ dai nầy được lầm hiểu là mãi mãi thường còn, là tốt, là tự ngã. Nhưng khi tưởng (saññā) đã nhận ra một đối tượng, thì nó liền tan biến. Những gì mà sau đó mình nhận ra là chức năng của một tưởng (saññā) khác. Nghe cũng vậy. Những gì mình nghe và hồi nhớ nhận ra lần đầu tiên cũng nhanh chóng hoại diệt, rồi tiếp theo sau đó là sự nghe và nhận ra mới khác. Vị hành giả đã thận trọng ghi nhận những gì đã thấy hay đã nghe, nhận thức rằng hai tiến trình thấy và nhận ra, hay nghe và nhận ra, cùng tan biến một lúc. Hiểu biết như vậy hành giả đi đến kết luận rằng saññā, tưởng, cũng là vô thường. Hiểu như vậy, khi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu được hỏi tưởng (saññā) là thường còn hay vô thường thì liền trả lời, "Bạch Ngài, là vô thường", bởi vì các vị nầy nhận thấy rằng những tiếng nói của Ðức Thế Tôn nhanh chóng tan biến, ngay trong khi các Ngài vừa nghe và nhận ra nó. "Lại nữa, cái gì vô thường là đau khổ hay hạnh phúc?" -- "Bạch Ngài, là đau khổ." "Toại nguyện hay bất toại nguyện?" -- "Bạch Ngài là bất toại nguyện." "Giờ đây, cái gì vô thường, bất toại nguyện, phải chuyển biến, có thích hợp không nếu xem đó 'Cái nầy là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi'?" -- "Bạch Ngài, không thích hợp." Ðây là những câu vấn đáp mà chúng ta đã thảo luận trước. Ðiều chỉ cần phải hiểu biết là bằng cách nào tưởng (saññā) dính mắc với tham ái và tà kiến. Thông thường, người mà không thể quán niệm những hiện tượng danh và sắc bằng lòng với tưởng (saññā), bám níu vào nó (với lòng tham ái) nghĩ "đây là của tôi". Nghĩ rằng trí nhớ dai của ta tốt hơn của người khác và hãnh diện với điều ấy: đó là bám níu với ngã mạn. Cũng nghĩ rằng mỗi khi thấy và nghe ta hồi nhớ và nhận ra, đó là bám níu do tà kiến, "đây là tự ngã của tôi, là chính tôi." Trong thực tế, sự hồi nhớ (saññā) một đối tượng là vô thường, vừa khởi sanh liền nhanh chóng tan biến. Vị hành giả thận trọng có chánh niệm nhận thức rằng saññā, tưởng, là vô thường, bởi vì tự chính mình thấy nó vừa khởi sanh liền tức khắc tan biến; vị ấy nhận thức tưởng là đau khổ bởi vì nó là vô thường, vừa sanh đã diệt. Tưởng, saññā, có thể giữ lại trong trí nhớ những sự việc khủng khiếp, và như thế là có tính cách áp bức. Tưởng, saññā, không ở yên trong một hình thức mà luôn luôn chuyển biến. Tưởng, saññā, không đáng cho ta tham ái như một điều gì vừa ý đẹp lòng, không đáng cho ta lấy đó làm hãnh diện vì bền bỉ, có thể tồn tại lâu dài, cũng không đáng cho ta tin tưởng vào đó như một thực thể sống. Do đó Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đáp rằng xem tưởng, saññā, như "của ta, ta, tự ngã của ta" là không thích đáng. Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi như thế nhằm gội rửa tình trạng dính mắc với lòng tham ái và ngã mạn trong tâm Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, xem tưởng uẩn, vốn vô thường, khổ, luôn luôn chuyển biến, như "Ðây là của tôi, đây là tôi," và đối với người thế gian thông thường, nhằm diệt trừ tà kiến về tự ngã, xem tưởng uẩn là chính ta. Bản Chất Vô Thường Của Hành Uẩn Saṅkhārā niccā vā aniccā vāti. Aniccā bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipari-ṇāmadhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama esohamasmi eso me attāti. No hetaṁ bhante. "Saṅkhārā, hành uẩn, là thường còn hay vô thường?" Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi. -- "Bạch Ngài, là không thường còn." Saṅkhārā, hành, là nguyên động lực đưa đến những hành động có ý muốn bằng thân, khẩu, ý. Theo ý nghĩa trừu tượng, đây là năm mươi hai tâm sở -- do tác ý, cetanā, dẫn đầu. Những tâm sở nầy có ảnh hưởng trong một phạm vi rộng lớn. Năng lực làm động cơ nằm phía sau tất cả những hành động bằng thân như đi, đứng, ngồi, nằm, co vào, duỗi ra và cử động là saṅkhārā, hành; những hành động bằng khẩu cũng do chính saṅkhāra nầy thúc đẩy. Những lời nói của Sư (Ngài Mahāsi Sayadaw) hiện thời cũng do saṅkhārā, hành, làm động cơ. Khi nói và đọc kinh, mỗi tiếng được thốt ra đều do saṅkhārā. Cũng chính saṅkhārā nằm phía sau mọi ý nghĩ và mọi tính toán trong tâm. Thông thường người ta nghĩ rằng những hành động -- bằng thân, khẩu, ý -- ấy là do "tôi, tự ngã của tôi" thực hiện, và cái "tôi", người hành động ấy, là thường còn. Nhưng vị hành giả có chánh niệm quán chiếu di động phồng lên xẹp xuống của bụng và thận trọng ghi nhận mọi sinh hoạt của tâm, ngay vào lúc nó khởi phát. Vị ấy nhận thức rằng cetanā, tâm sở tác ý, liên hợp với tâm tham (lobha) làm phát sanh ý muốn và thúc đẩy ta làm theo những gì nó muốn. Người hành thiền phải ghi nhận những sinh hoạt tâm linh ấy, "ưa thích," "muốn". Khi liên hợp với tâm sân, tác ý phát hiện là tình trạng nổi nóng, hay giận dữ. Khi tác ý liên hợp với tâm si, ta nghĩ đến những hành động sai lầm; những ý tưởng sai lầm ấy phải được ghi nhận. Khi liên hợp với ngã mạn, tác ý thổi phồng tự ngã, và ta phải loại bỏ bằng cách niệm, "ngã mạn, ngã mạn." Khi liên hợp với lòng ganh ghét, đố kỵ, hay bỏn xẻn, tác ý liên hợp với tánh ganh tỵ và bỏn xẻn, phải được ghi nhận đúng như vậy. Khi tác ý phát sanh liên hợp với đức tin và niềm tin vững chắc ấy làm phát triển tâm đạo nhiệt thành và lòng tôn kính Phật, Pháp, Tăng, thúc đẩy ta lễ bái Tam Bảo. Những tư tưởng ấy được ghi nhận là đức tin, tâm đạo và lòng tôn kính, ngay khi nó khởi phát. Hành động bất thiện (akusala) đưa đến quả dữ, nhưng tác ý có thể chận đứng, cắt đứt luồng tư tưởng bất thiện, khuyến khích ta gạt bỏ tư tưởng bất thiện ấy. Hành động thiện (kusala) dẫn đến quả lành; tác ý có thể thúc giục ta theo chiều hướng thiện ấy. Tác ý có thể phát hiện dưới nhiều hình thức và phải được ghi nhận đúng như vậy. Tác ý có thể phát hiện liên hợp với niệm, chăm chú vào một sự kiện nào, vào một lúc nào, một hành động thiện tương tợ có thể được thực hiện. Tác ý có thể khởi sanh theo nhiều phương cách khác nhau, và thái độ tâm linh của những chặp tư tưởng ấy cũng phải được ghi nhận. Khi tâm từ (mettā) phát sanh cùng với tác ý (cetanā) thì có những cảm nghĩ từ thiện đối với người khác, những tư tưởng muốn làm cho người khác có hạnh phúc. Với tâm bi, tác ý phát sanh liên hợp với lòng thương hại kẻ khác và những suy tư tìm cách giúp người thoát khỏi cảnh bất hạnh. Tất cả những thái độ tâm linh ấy phải được thận trọng ghi nhận. Trong khi ghi nhận di động phồng xẹp ở bụng, nếu có những cảm thọ cứng, mềm hay nóng, lạnh khởi hiện, phải ghi nhận tất cả. Trong khi ghi nhận như vậy có thể có những ý nghĩ thúc giục ta co tay vào hay duỗi tay ra và thay đổi thế ngồi. Những điều ấy cũng phải được ghi nhận đầy đủ. Rồi có sự thúc giục muốn cúi đầu xuống hay ngẩng đầu lên, muốn nghiêng mình ra trước hay ngả ra sau, đứng dậy và đi. Những sinh hoạt ấy của cơ thể đều do tác ý khởi phát ý muốn và tạo duyên. Tất cả đều phải được ghi nhận. Rồi có tác ý thúc giục ta có những lời nói, nói theo chiều hướng nào và nói như thế nào, cũng y như hiện thời Sư (Ngài Mahasi) đang nói. Vị hành giả cẩn trọng theo dõi tất cả những sinh hoạt của tác ý ắt tự kinh nghiệm bản thân, hiểu biết rằng những "ý muốn làm" ấy vừa khởi sanh đã tức khắc tan biến và do đó, là vô thường. Và Nhóm Năm Vị đã chứng đắc tầng Nhập Lưu xuyên qua kinh nghiệm bản thân hiểu biết bản chất vô thường của vạn hữu. Trong khi nghe kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta, nhìn thấy trở lại bản chất vô thường, bằng cách nhận thức trạng thái không ngừng sanh diệt của hành, saṅkhāra, như xúc (phassa), tác ý (cetanā), sự chú ý (manasikāra), đức tin (saddhā), và niệm (sati). Do đó, để trả lời câu hỏi "Hành là thường còn hay vô thường?" Năm Vị bạch, "Bạch Ngài, là không thường còn." "Lại nữa, điều gì vô thường, điều ấy là đau khổ hay hạnh phúc?" -- "Bạch Ngài, là đau khổ." "Ðiều gì vô thường, đau khổ và phải luôn luôn chuyển biến ... có thích nghi không nếu ta xem đó là 'Của tôi, đó là tôi, đó là tự ngã của tôi'?" -- "Bạch Ngài, là không thích nghi." Ðây là những loại vấn đáp mà ta đã thấy trước kia. Ta chỉ nên hiểu biết thế nào saṅkhāra, hành, có thể làm cho ta dính mắc với tham ái, ngã mạn và tà kiến, và làm thế nào không để bị vướng kẹt trong những dính mắc ấy. Người thường không thể ghi nhận những hiện tượng sắc và danh ngay vào lúc nó khởi sanh, tin tưởng rằng hành (hay tâm sở tác ý) là tốt đẹp và hoan hỷ thỏa thích trong ấy. Ðó là dính mắc với tham ái. Nghĩ rằng những việc làm ấy là của ta, do chính ta thực hiện, rằng ta có thể làm giỏi hơn những người khác, đó là dính mắc với ngã mạn. Nghĩ rằng những hoạt động như đi, đứng, ngồi, co vào, duỗi ra, và di động, do chính ta thực hiện -- "Tôi đi, chính tôi làm điều ấy; tôi nói, chính tôi nói; tôi nghĩ, chính tôi nghĩ; tôi thấy, tôi nhìn, tôi nghe, chính tôi thấy, nghe, nhìn, và lắng tai" -- là dính mắc với tà kiến. Nghĩ rằng sự dính mắc ấy nằm bên trong người hành động, được gọi là kāraka attā, tin tưởng rằng tất cả những hành động -- bằng thân, khẩu và ý -- đều do chính ta thực hiện. Tin tưởng rằng cái "ta" ấy, vốn nằm bên trong ta, đi khi nó muốn đi, đứng, ngồi, co vào, duỗi ra, nói, và suy tư khi nó muốn, khi nó quyết định, và chính ta điều khiển là sāmi attā. Vị hành giả chuyên cần nhìn những hiện tượng sắc và danh, nhận thấy rằng mỗi sinh hoạt vừa khởi sanh, như ý muốn suy nghĩ, thấy, nghe, co vào, duỗi ra, thay đổi oai nghi, đứng dậy, đi, hay nói chuyện, tức khắc tan biến vừa khi được ghi nhận. Như vậy, tất cả những sinh hoạt không ngừng sanh và diệt ấy, là vô thường, do đó không đáng cho ta hoan hỷ thỏa thích hay tin cậy, mà là đau khổ; rồi do kinh nghiệm bản thân, hành giả đi đến kết luận là không có gì để bám níu như "đây là của tôi," không có gì để cho ta hãnh diện như "đây là tôi" hay tin rằng "đây là tự ngã của tôi, là chính tôi". Nhóm Năm Vị đã nhận thức như vậy và chứng đắc Tu Ðà Huờn. Trong khi lắng nghe bài kinh Vô Ngã Tướng nầy cũng vậy, các Ngài nhận thấy hành uẩn luôn luôn sanh diệt. Do đó các Ngài trả lời câu hỏi của Ðức Thế Tôn rằng quả thật không thích nghi nếu xem những gì vô thường, khổ và phải luôn luôn chuyển biến là "của tôi, tôi, tự ngã của tôi." Bản Chất Vô Thường Của Thức Uẩn Viññāṇaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vāti. Aniccaṁ bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama esohamasmi eso me attāti. No h'etaṁ bhante. "Thức là thường còn hay vô thường?" Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi. Năm Vị Tỳ Khưu trả lời, "Là vô thường, Bạch Ngài." Viññāṇā là tâm, hay thức; danh từ "thức" ít thông dụng bằng danh từ "tâm". Chí đến những tâm sở như tác ý, tham, sân, đều được gọi là tâm, bởi vì tâm có một nhiệm vụ dẫn đầu. Trong chương nầy chúng ta cũng dùng thường danh từ "tâm" thay vì "thức". Những người không thể quán chiếu và niệm tâm ngay vào lúc nó khởi phát, tưởng tượng rằng tâm liên tục tiếp nối, thường còn; chính cái tâm ấy cảm nhận sự thấy, sự nghe, sự hửi, sự nếm, và sự suy nghĩ; chính cái tâm thấy một cách liên tục không gián đoạn, và sự nghe, sự hửi cũng liên tục không gián đoạn như thế; chính cái tâm hiện hữu lúc tuổi thơ vẫn còn tồn tại đến nay và sẽ tiếp tục tồn tại đến chết; chính cái tâm ấy đã liên tục sinh hoạt xuyên qua suốt kiếp sống. Vài người còn tin rằng cũng cái tâm ấy sẽ di chuyển sang những kiếp sống tương lai. Như thế ấy tâm được xem là vĩnh viễn thường còn. Khi vị hành giả ghi nhận di động phồng xẹp của bụng chuyên cần quán chiếu những hiện tượng sắc và danh ghi nhận sự khởi sanh của một ý nghĩ hay một tư tưởng, liền niệm, "ý nghĩ", "tư tưởng". Khi niệm như thế, ý nghĩ hay tư tưởng tan biến. Như vậy hành giả nhận thức: "Trước đó không có tư tưởng, nó xuất hiện và tức khắc biến tan. Trước kia tôi tưởng tượng rằng tư tưởng là thường còn bởi vì lúc ấy tôi không quán chiếu một cách thận trọng. Giờ đây tôi thận trọng quán chiếu và thấy nó tan biến, hiểu biết đúng sự thật, tôi nhận ra nó là vô thường." Nhĩ thức cũng vậy, khi niệm "nghe, nghe" tâm cũng liên tục khởi sanh rồi tan biến, khởi sanh rồi tan biến, một cách rất nhanh chóng. Tỷ thức và thiệt thức, tâm hay biết mùi và vị, cũng cùng thế ấy. Thân thức cảm nhận xúc giác, được ghi nhận cũng khởi sanh và hoại diệt rất nhanh chóng, chỗ nầy chỗ kia, cùng khắp châu thân. Khi tâm định an trụ thật vững chắc, nhãn thức cũng được nhận ra là luôn luôn sanh diệt trong một chuỗi dài, một loạt những sự thấy riêng biệt và liên tục, cái nầy đến cái khác. Như thế ấy ta nhận thức rằng tâm suy tư, nghe, sờ đụng, thấy v. v... khởi sanh riêng biệt và riêng biệt tan biến, hết cái nầy đến cái khác, tất cả đều vô thường, không ổn định. Tâm muốn thay đổi oai nghi, muốn co vào hay duỗi ra, đứng dậy, hay đi, đổi mới từng chặp và tức khắc hoại diệt. Tâm ghi nhận mỗi hiện tượng cũng hoại diệt mỗi khi ghi nhận. Như vậy cái tâm hay biết những loại đối tượng khác nhau không ngừng sanh diệt và do đó, là vô thường. Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã nhận thức sự việc như vậy và chứng đắc tầng Nhập Lưu. Khi lắng nghe Ðức Thế Tôn giảng giải kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇa Sutta) nầy, xuyên qua trạng thái sanh diệt của thức uẩn, các Ngài nhận thấy rõ ràng bản chất vô thường một lần nữa. Do đó, đáp lại câu hỏi của Ðức Thế Tôn, "Thức là thường còn hay vô thường?" các Ngài kính bạch, "Bạch Ngài, là không thường còn." Ðối với người hành thiền chuyên cần quán niệm, hiển nhiên quả thật là rất rõ ràng. "Hơn nữa, cái gì là vô thường, đó là khổ (dukkha) hay lạc (sukha)?" Ðức Thế Tôn hỏi, và các vị trả lời, "Bạch Ngài, là khổ." "Cái gì là vô thường, khổ, và phải luôn luôn chuyển biến, có thích nghi chăng nếu xem đó 'Cái nầy của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi'?" -- "Bạch Ngài, không thích nghi." Ðây là những câu vấn đáp đã có được đề cập đến ở phần trên. Chúng ta chỉ cần hiểu thế nào tâm suy tư và hiểu biết có thể lầm lạc vướng kẹt trong các dính mắc ấy với tham ái, ngã mạn, và tà kiến, và làm thế nào để tháo gỡ, vượt thoát ra khỏi những loại dính mắc ấy. Người thường, vốn không thể ghi nhận tâm của mình ngay vào lúc nó phát hiện ở lục căn, lấy làm hoan hỷ thỏa thích xem thức hay biết ấy là "của tôi, là chính tôi." Người ta thích thú với cái tâm phát hiện trong khoảnh khắc hiện tại; người ta thỏa thích với cái tâm đã khởi sanh trước đó, và người ta thỏa thích với cái tâm sẽ phát sanh trong tương lai. Ðó là dính mắc, chấp ngã, với tâm tham ái. Người hành thiền, trong khi niệm, nhận ra rằng tất cả những loại nhãn thức hay nhĩ thức đẹp mắt, êm tai và đem lại niềm vui thú ấy nhanh chóng tan biến khi mình niệm đến nó. Người ấy không hoan hỷ thỏa thích trong đó và không khao khát mong tìm. Ðó là phương cách để vượt thoát ra khỏi sự dính mắc với lòng tham ái. Người thường, vốn không niệm tâm, không thể phân biệt cái tâm đến trước và cái theo sau. Họ nghĩ rằng tâm của họ lúc thiếu thời vẫn một mực liên tục tồn tại đến hiện nay, vẫn là cái tâm thường còn. Cái tâm mà họ có trước kia tiếp tục thấy, nghe, sờ đụng, và suy tư. Nghĩ rằng tâm là thường còn và có những đặc tính riêng biệt làm phát triển tính ngã mạn, "tôi hiểu biết như thế nầy, tôi sẽ không chấp nhận điều vô lý, tôi có tâm gan lì can đảm." Ðó là dính mắc với ngã mạn. Nhưng người hành thiền chuyên cần quán niệm hiểu biết rằng tất cả những chặp tâm ấy luôn luôn hoại diệt biến tan khi mình vừa ghi nhận, niệm đến nó. Người ấy hiểu biết bản chất vô thường của tâm. Cũng như tánh ngã mạn không phát sanh đến người biết mình sắp chết, vị hành giả đã thấu triệt bản chất phù du của tâm không dính mắc vào đó với lòng ngã mạn. Ðó là phương cách nhằm vượt thoát ra khỏi dính mắc với ngã mạn. Người thường tin tưởng, "Chính tôi đã thấy, chính tôi đã nghe, hửi, sờ đụng và suy tư; tôi có thể hiểu biết nhiều loại đối tượng khác nhau; tôi muốn co vào, duỗi ra, đi, nói chuyện, tất cả những tư tưởng và hành động là do tâm tôi, do chính tôi thực hiện." Ðó là chấp thủ kāraka attā. Sự chấp thủ dưới hình thức hành uẩn có thể được xem là saṅkhāra, nhưng cũng có thể liên quan đến thức (viññāṇa). Thông thường ý muốn co vào, duỗi ra, hay làm một việc gì, được xem là tâm hay thức. "Tâm hay thức nầy được xem là tự ngã hiện hữu thường còn bên trong một người; chính tự ngã ấy trở thành nhãn thức và nhĩ thức." Tin tưởng như thế đó là chấp thủ nivāsa attā. Vài tôn giáo hiện đại nói về một cái thức hay linh hồn trường cửu nằm bên trong thân. Theo niềm tin nầy, khi một người chết, linh hồn lìa xác chết và vào ở trong một cơ thể mới. Vào thời Ðức Phật vị tỳ khưu Sāti xem thức là tự ngã. Câu chuyện nầy đã được tường thuật trong Chương IV, trang 360. Ðây là tà kiến xem thức là tự ngã. Rồi lại có niềm tin rằng ta có thể suy tư theo ý muốn, hay kiểm soát cái tâm của mình như mình quyết định. Ðó là chấp thủ sāmi attā. Ðối với vị hành giả luôn luôn giữ chánh niệm, chí đến mỗi khi niệm, "suy tư, suy tư" thì tâm suy tư tan biến; niệm "nghe, nghe", thì nhĩ thức tan biến; niệm, "sờ đụng, sờ đụng" thì thân thức tan biến; niệm, "thấy, thấy" thì nhãn thức tan biến. Nhận ra sự tan biến của thức như vậy ngay vào lúc niệm đến nó, hay biết rằng "những thức khác nhau liên hệ đến suy tư, nghe, sờ đụng, thấy v.v... chỉ là những hiện tượng phát sanh do các nhân của nó tạo duyên, rồi liền tan biến. Thức ấy không phải là tự ngã, không phải một thực thể sống." Hành giả nhận thức rõ như thế nầy: Theo đúng với câu cakkhuṁ ca paṭicca rūpa ca uppajjati viññāṇaṁ -- nhãn thức phát sanh tùy thuộc nơi mắt và hình thể được thấy; nhĩ thức phát sanh tùy thuộc nơi tai và tiếng động; thân thức phát sanh tùy thuộc nơi thân và vật được sờ đụng; ý thức phát sanh tùy thuộc nơi ý căn và đối tượng tâm linh; tâm chú niệm phát sanh tùy thuộc nơi ý muốn (niệm, hay ghi nhận) và đối tượng được ghi nhận. Những loại thức khác nhau phát sanh do những nhân và duyên của chính nó. Với những nguyên nhân tạo duyên ấy nó khởi phát và hoại diệt, dầu ta có muốn nó khởi phát và hoại diệt cùng không. Nếu không có những nguyên nhân tạo duyên ấy ắt không có ý muốn làm cho nó phát sanh. Chúng ta muốn cho tâm thỏa thích tồn tại lâu dài, nhưng nó không tồn tại mà nhanh chóng hoại diệt. Như vậy vị hành giả có thể quyết định với sự hiểu biết của chính mình rằng, "thức không phải là tự ngã thường còn tác hành những sinh hoạt theo ý muốn của ta." Nó chỉ là một hiện tượng khởi sanh tùy thuộc nhân duyên rồi tan biến. Trí tuệ của Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu không phải là sự hiểu biết thông thường mà là tuệ giác của bậc đã Nhập Lưu, hoàn toàn không còn chấp thủ. Do đó, khi Ðức Thế Tôn hỏi, "Thức uẩn vốn là vô thường, khổ và phải chuyển biến, có thích nghi chăng nếu xem đó như 'Ðây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi'?" Các vị trả lời, "Bạch Ngài, là không thích nghi." Chúng ta đã giải thích đầy đủ những câu hỏi trong giáo huấn đề cập đến sự chấp thủ ngũ uẩn, sắc, thọ, tưởng, hành, thức, xuyên qua tham ái, ngã mạn và tà kiến. Giờ đây ta tiếp tục thảo luận đến phương cách quán chiếu nhằm rửa sạch ba loại chấp thủ ấy. Mười Một Phương Cách Phân Tách Sắc Pháp Tasmātiha bhikkhave yaṁkiñci rūpaṁ atītānāgata-paccuppannaṁ ajjhattaṁ vā bahiddhā vā oḷārikaṁ vā sukhumaṁ vā hīnaṁ vā paṇītaṁ vā yandūre santike vā sabbaṁ rūpaṁ netaṁ mama nesohamasmi na meso attāti' eva metaṁ yathābūtaṁ sammappaññāya daṭṭhabbaṁ. "Nầy chư tỳ khưu, bởi vì là không thích nghi nếu nghĩ đến sắc uẩn 'Ðây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi,' tất cả những loại sắc pháp, dầu ở quá khứ, vị lai hay hiện tại, bên trong hay bên ngoài, thô kịch hay vi tế, thấp hèn hay cao thượng, xa hay gần, phải được xem với sự hiểu biết chân chánh, đúng theo thực tế như sau, 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi'." Trong lời tuyên ngôn trên, sắc uẩn được mô tả bằng mười một phương cách: quá khứ, vị lai, hiện tại, bên trong, bên ngoài, thô kịch, vi tế, thấp hèn, cao thượng, xa, gần. Về phương diện thời gian, sắc uẩn được mô tả bằng những danh từ quá khứ, vị lai, hiện tại. "Quá khứ" hàm ý là đã phát sanh và hoại diệt trong những kiếp sống trước, hoặc trong kiếp nầy, những gì đã phát sanh và hoại diệt trước đây. "Vị lai" có nghĩa là cái gì chưa xảy diễn, cái gì sắp xảy đến một lúc nào trong tương lai. "Hiện tại" là cái gì thật sự xảy diễn ngay bây giờ. Do đó, nó bao trùm tất cả những gì xảy ra trước đây, những gì đang xảy ra ngay bây giờ và những gì sắp xảy ra trong tương lai. Như vậy, khi sắc uẩn được kể ra bằng ba phương cách theo thời gian thì tất cả sắc pháp bên trong ta và trong người khác, cả hai -- hữu tri hữu giác và vô giác vô tri -- đều được bao trùm trong đó. Tuy nhiên trong pháp hành thiền Minh Sát (vipassanā), người hành thiền chỉ chú trọng đến công phu quán chiếu những gì phát sanh trong thân, như đã được trình bày rõ ràng trong Chú Giải và Phụ Chú Giải kinh Anupada Sutta của bộ Majjhima Nikāya (Trung A Hàm). Những hiện tượng xảy ra nơi nào khác chỉ được hiểu biết bằng cách ức đoán. Như vậy người hành thiền chỉ cần hiểu biết những hiện tượng vật chất và tinh thần (sắc và danh) xảy ra bên trong chính thân mình và thấy bản chất thật sự của nó với trí tuệ của chính mình. Dầu đối với những hiện tượng xảy ra bên trong mình ta chỉ hiểu biết những gì xảy ra trong tương lai bằng cách suy diễn, bởi vì nó chưa xảy ra. Những gì đã xảy ra trước đây, ta cũng không thể hiểu biết đúng như nó thật sự là vậy, mà chỉ hiểu bằng cách suy đoán. Dầu đó là những hiện tượng xảy ra trong kiếp sống nầy ta cũng không dễ gì thấy rõ những gì thật sự xảy ra trong vài năm trước, trong vài tháng, hay vài ngày qua. Dầu những gì vừa xảy ra trong vài giờ trước đây, cũng khó mà hiểu được sự thật một cách tuyệt đối, bởi vì với người thường, mỗi khi thấy, nghe hay sờ đụng vật gì liền bị dính mắc trong những khái niệm chế định như "tôi", "nó", "người nam", "người nữ". Như đã ghi rõ trong kinh Bhaddekaratta Sutta, "Paccuppannañca yo dhammaṁ, tattha tattha vipassati": Trong pháp hành thiền Minh Sát, chỉ có hiện tại là phải được quán chiếu, có nghĩa là chỉ có những hiện tượng xảy diễn trong hiện tại mới được xem là những hiện tượng được thấy và được kinh nghiệm. Kinh Satipaṭṭhāṇa Sutta, Niệm Xứ, cũng ghi rằng phải ghi nhận trước tiên hiện tượng xảy ra trong hiện tại khi đi, đứng, ngồi, nằm. Sư đã thận trọng phân tách chương nầy bởi vì trong đó đề cập đến "quá khứ, hiện tại, vị lai" và ta có thể hoài nghi rằng có phải chăng nên bắt đầu bằng cách quán chiếu những gì xảy ra trong quá khứ. Công trình phân tách chương nầy loại bỏ hoài nghi ấy. Chỉ có những hiện tượng vật lý và tâm linh phát hiện ở lục căn ngay vào lúc đối tượng được thấy, nghe, hửi, nếm, sờ đụng, hay nghĩ đến, phải được ghi nhận, giống như thiền sinh chúng ta hiện thời đang ghi nhận những hiện tượng phồng, xẹp, ngồi, đụng v.v... Bằng cách thực hành như vậy, khi tâm định vững mạnh chắc chắn hành giả có thể phân biệt rõ ràng di động phồng lên và tâm ghi nhận sự phồng lên ấy; di động xẹp xuống và tâm ghi nhận di động ấy. Thời gian cái bụng giãn ra, ép lên và nổi phồng chỉ kéo dài chí đến lúc xẹp xuống, rồi tan biến khi bụng xẹp. Trạng thái và di động xẹp xuống của bụng cũng chỉ kéo dài đến lúc bụng bắt đầu phồng lên, rồi tan biến và chấm dứt tại đó ngay vào lúc ấy. Khi đi cũng vậy, tác động duỗi chân ra và di động đưa "bước mặt tới" chỉ kéo dài đến lúc "bước trái" bắt đầu; cùng thế ấy, động tác và di động bước tới của chân trái chỉ kéo dài đến khi bước mặt bắt đầu. Vừa phát hiện đã chấm dứt. Tác động "dở lên" chỉ kéo dài đến lúc "đưa chân tới"; tác động đưa chân tới chỉ kéo dài đến lúc "đặt chân xuống"; tất cả đều chấm dứt khi giai đoạn sắp tới kế đó khởi phát. Cùng thế ấy khi co tay vào và duỗi tay ra, mỗi hiện tượng tan biến ngay vào khoảnh khắc mà hiện tượng tới kế đó khởi phát. Khi tâm định đặc biệt vững mạnh hành giả sẽ nhận thấy rằng trong khoảng thời gian của tác động co vào hay duỗi ra, tiến trình hoại diệt xảy diễn rất nhanh chóng, liên tục tiếp nối trong một chuỗi dài. Vị hành giả nhận thức rằng cho đến nay mình chưa từng hiểu biết bản chất thiên nhiên của những hiện tượng nầy như thế ấy, bởi vì đến nay mình ghi nhận không đủ xuyên thấu. Giờ đây thận trọng ghi nhận, hành giả nhận thức rằng các uẩn không di chuyển từ khoảnh khắc nầy sang khoảnh khắc kế mà luôn luôn hoại diệt ngay vào lúc vừa khởi sanh. Như vậy những đặc tính vật lý, hay sắc pháp, khởi phát trước không kéo dài đến khoảnh khắc hiện tại mà tất cả đều chấm dứt. Những sắc pháp phát hiện trong hiện tại trong di động phồng, xẹp, co. duỗi, bước, đặt xuống, không tiến đến khoảnh khắc sau kế đó mà tan biến trong khoảnh khắc hiện tại. Rồi những sắc pháp của những hiện tượng kế đó cũng chấm dứt ngay vào lúc khởi sanh. Như vậy tất cả những loại sắc pháp là vô thường, không ngừng sanh diệt. Nó là đau khổ, vô ngã, chỉ là những hiện tượng, bởi vì ta không thể kiểm soát. Nó phát sanh và hoại diệt tùy thuộc những nhân và duyên của chính nó. Ðến đây hành giả nhận thức sắc pháp qua trí tuệ của chính mình. Nhằm giúp nhận thức như thế Ðức Thế Tôn kêu gọi nên cố gắng hành thiền để có thể hiểu biết rằng "đây không phải của tôi." Quán Chiếu Về Netaṁ mama và Anicca Netaṁ mama -- "Ðây không phải là tôi" -- Theo lời dạy nầy ta có thể hỏi rằng phải chăng quán chiếu có nghĩa là đọc tụng công thức nầy. Không có đọc tụng chi cả. Công phu thực hành Thiền Tập phải được thực hiện để hiểu biết bản chất thật sự của sự vật là vô thường, khổ và vô ngã. Hiểu biết thực tướng của các pháp hữu vi tức là thông hiểu ý nghĩa của thành ngữ "netaṁ mama" trong tiếng Pāli. Trong kinh Channa Sutta, phẩm Saḷāyatanavagga của bộ Saṁyutta Nikāya, Tạp A Hàm, có đoạn ghi rằng khi Channa được hỏi "Ông có nhận thức chăng rằng: 'Ðây là của tôi, đây là tôi, đây là tự ngã của tôi'?" và Channa trả lời, "Tôi nhận thức như thế nầy: 'Ðây không phải là của tôi, đây không phải là tôi, đây không phải là tự ngã của tôi'." Bản Chú Giải giải thích rằng như vậy có nghĩa là Channa nhận thức sự vật chỉ là vô thường, khổ và vô ngã. Nơi đây, đoạn thấy "đây không phải là của tôi" cũng đồng nghĩa với câu nói "bởi vì sự vật luôn luôn sanh và diệt, không có chi đáng cho ta thích thú với nó, hay không có chi đáng cho ta tùy thuộc, tin cậy, hay nương tựa vào, mà chỉ là đau khổ". Thấy "đây không phải là tôi" là thấy rằng nó không thường còn. Tánh ngã mạn phát sanh bởi vì ta tin rằng sự vật là thường còn. Khi hiểu biết thực tướng vô thường của sự vật thì không có gì để ta hãnh diện. Thấy "đây không phải là tự ngã của tôi", tức không phải là chính tôi, là thấy vô ngã, anattā. Sự kiện không ghi nhận đúng những hiện tượng vật lý và tâm linh, sắc và danh, vào lúc nó phát hiện ở lục căn và tin tưởng rằng đó là thường còn, đưa đến hãnh diện "đây là tôi". Nhưng khi các hiện tượng được nhận thức là không tồn tại đến một nháy mắt, khi mọi sự vật được thấy là vô thường, thì ngã mạn không thể phát sanh. Giờ phút nào mà sự vật không được nhận thức rõ ràng là vô ngã thì còn ý niệm chấp thủ vào cái "ta"; khi sự vật được thấy là vô ngã thì không thể còn chấp ngã. Ðiều nầy dĩ nhiên là vậy, không cần phải diễn giải dong dài. Người thường, không thể quán sát và hiểu biết những hiện tượng được cảm thọ vào lúc nó khởi phát, tin rằng chính những sắc pháp khởi sanh vào lúc mình thấy kéo dài và trở thành những sắc pháp vào lúc mình nghe, hay ngược lại, những sắc pháp ấy tồn tại từ khoảnh khắc nầy sang khoảnh khắc kế. Họ cũng tưởng rằng chính một "cái tôi" thấy và cũng chính một "cái tôi" ấy nghe, và sờ đụng. Họ tin tưởng rằng những sắc pháp trong quá khứ còn tồn tại đến hiện tại, và những sắc pháp trong hiện tại sẽ kéo dài tồn tại trong tương lai, đó là chấp thủ vào niềm tin thường còn. Nhưng vị hành giả chuyên cần quán niệm những hiện tượng, hiểu biết rằng các sắc pháp phát hiện trong lúc mình thấy tan biến ngay vào lúc ấy. Nó không tồn tại kéo dài đến lúc mình nghe, và các sắc pháp phát hiện trong lúc mình nghe cũng tức khắc tan biến liền tại chỗ, không kéo dài đến lúc mình thấy. Mỗi khi thấy, nghe, sờ đụng và hiểu biết là một sự phát hiện mới. Ðó là hiểu biết chân lý vô thường của sự vật đúng như thật sự nó là vậy. Thông hiểu như vậy người hành thiền nhận thức rằng sắc pháp trong quá khứ đã chấm dứt trong quá khứ, không tồn tại đi vào hiện tại; các sắc pháp phát sanh trong hiện tại cũng luôn luôn tiêu diệt ngay vào lúc nó được ghi nhận và sẽ không tồn tại đi vào vị lai. Vị ấy cũng hiểu biết rằng các sắc pháp phát sanh trong tương lai cũng sẽ hoại diệt ngay vào lúc khởi sanh. Vị ấy nhận thức rằng sắc pháp không thể tồn tại đến một nháy mắt. Nhận thức như vậy không có cơ hội để làm khởi sanh tình trạng chấp ngã do lòng tham ái, "đây là của tôi", chấp ngã do tính ngã mạn "đây là tôi", và chấp ngã do tà kiến "đây là tự ngã của tôi". Ðức Thế Tôn kêu gọi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu nên quán chiếu và suy niệm theo phương cách nầy để loại trừ tình trạng chấp ngã do tham ái và chấp ngã do ngã mạn. Người thường cũng được dạy nên quán niệm như vậy để diệt trừ tà kiến ngã chấp. Các Vị Tu-Ðà-Huờn Ðược Dạy Nên Quán Niệm Về Ðặc Tướng Vô Ngã Tại sao Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, vốn đã chứng ngộ tầng Nhập Lưu, còn được dạy nên quán niệm "đây không phải là tự ngã của tôi" để diệt trừ tà kiến ngã chấp? Ðó là điều mà ta nên suy tư. Theo sách Thanh Tịnh Ðạo (Visudhimagga), bậc Nhập Lưu đã loại trừ những ảo kiến về tự ngã (diṭṭhi vipallāsa), những ảo kiến về tri giác, tưởng uẩn (saññā vipallāsa) và ảo kiến về tâm (citta vipallāsa). Bởi vì Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu đã loại trừ tất cả ba loại ngã chấp ấy thì lời kêu gọi của Ðức Thế Tôn nhằm vào chấp thủ nào? Trong phần trước chúng ta đã thấy bài kinh Anattalakkhaṇa, Vô Ngã Tướng, nầy dạy phải hành như thế nào để loại trừ asmi māna, vốn tương tợ như ngã chấp. Nhưng nơi đây, vì đã có lời dạy nhằm loại trừ asmi māna trong câu neso hamasmi, "đây không phải là tôi", thì không thể có lời dạy quán niệm về na meso attā, "đây không phải là tự ngã của tôi" cũng nhằm loại trừ asmi māna. Như vậy thì lời dạy nầy nhằm tiêu trừ loại chấp thủ nào? Ðây là điểm cần phải xét lại. Tìm ra một giải pháp rõ ràng và chính xác cho vấn đề nầy không phải là dễ. Sư sẽ cố gắng giải quyết bằng ba phương cách:
Trên đây là một cố gắng nhằm dung hòa những lời dạy trong Kinh Ðiển Pāli và lời Chú Giải, nói rằng vị Tu Ðà Huờn đã thoát ra khỏi mọi tri giác và ý niệm về tự ngã. Mười Một Phương Cách Quán Niệm Giờ đây Sư sẽ thảo luận đến phương cách phải quán niệm như thế nào để thấy các sắc pháp trong quá khứ, hiện tại và tương lai là vô thường. Chúng ta đã mô tả vị hành giả hiểu biết đặc tướng vô thường, khổ và vô ngã như thế nào khi quán chiếu các sắc pháp lúc bụng phồng lên xẹp xuống và chấm dứt vừa khi mới phát hiện. Vị hành giả hiểu biết như thế có thể dựa theo đó mà suy diễn rằng sắc pháp trong quá khứ không tồn tại kéo dài đến hiện tại và những sắc pháp phát hiện trong hiện tại sẽ không kéo dài đến tương lai; nó chấm dứt ngay vào lúc vừa phát sanh và như thế là vô thường. Do đó các sắc pháp ấy là đau khổ, vô ngã. Nó chỉ là những hiện tượng. Hành giả suy niệm như sau:
Ðó là phương cách mà ta thường quán chiếu bản chất thật sự của các sắc pháp. Trong khi hành thiền, chúng ta suy niệm như sau:
Trên đây là phương cách mà sắc pháp trong quá khứ, hiện tại và tương lai nên được quán chiếu trong khi ghi nhận những hiện tượng phồng xẹp. Còn có một phương pháp suy niệm các sắc pháp trong quá khứ và vị lai bằng cách quán chiếu các sắc pháp hiện tại. Chúng ta sẽ đọc lại phương pháp suy niệm nầy. Cũng giống như có những sắc pháp sanh diệt vô thường trong di động phồng, xẹp, co, duỗi, dở lên, bước tới, đặt xuống, thấy và nghe, ngay vào lúc mình ghi nhận, có những sắc pháp cùng thế ấy đối với di động phồng, xẹp, co, duỗi trong quá khứ, nhanh chóng hoại diệt vừa khi khởi sanh. Do đó, nó cũng là vô thường, khổ, vô ngã. Ðã tự bản thân kinh nghiệm và nhận thức sắc pháp bên trong mình hoại diệt như thế nào, giờ đây hãy suy niệm về sắc pháp của những người khác, và những sắc pháp trong toàn thể thế gian. Cũng như những sắc pháp bên trong mình nhanh chóng hoại diệt vừa khi được ghi nhận, các sắc pháp trong những người khác và trong toàn thể thế gian cũng hoại diệt và tan biến, do đó là vô thường, khổ, vô ngã. Quán Chiếu Các Sắc Pháp Bên Trong Và Bên Ngoài Người ta tưởng tượng rằng khi mình khạc nhổ, hoặc bài tiết, đại hay tiểu tiện, ta tống khứ hay vứt bỏ ra ngoài những sắc pháp bên trong thân. Khi vật thực được ăn vào hay không khí được hít vào người ta tưởng tượng rằng ta đem những sắc pháp từ bên ngoài vào trong thân. Thực tế không phải vậy. Những sắc pháp phải tan hòa ngay vào lúc vừa khởi sanh, và những sắc pháp mới mẻ khác liền khởi sanh ở một nơi mới khác. Người hành thiền chuyên cần giữ chánh niệm nhận thức tình trạng hòa tan và chấm dứt tương tợ ở mỗi nơi nó phát sanh. Và sau đây là phương cách mà người hành thiền nhận thức: khi niệm và định được củng cố mạnh mẽ vững chắc, (trong khi niệm về hơi-thở-ra-và-thở-vào) hơi thở ra được thấy là đứt đoạn từng phần nhỏ trong phổi, cuống họng và mũi, trước khi sau cùng thoát ra khỏi thân. Hơi thở vào cũng được thấy là hơi được đẩy vào trong một loạt những đoạn nhỏ. Vị nào hút thuốc sẽ thấy rõ hơi khói được hít vào và thoát ra trong một loạt từng đoạn nhỏ. Một hiện tượng tương tợ cũng được nhận thấy khi uống nước, nước được nuốt vào cuống họng từng đợt nhỏ. Do đó ta thấy rằng không phải những sắc pháp bên trong được vứt bỏ ra ngoài, hay những sắc pháp bên ngoài được đưa vào trong. Các sắc pháp ấy chấm dứt và tan biến ngay tại chỗ, khi nó khởi sanh, và như vậy nó là vô thường, khổ và vô ngã. Quán Chiếu Các Sắc Pháp Thô Kịch Và Vi Tế Thông thường người ta tin rằng những sắc pháp vi tế mềm mại non nớt của một người lúc còn trẻ trở thành thô sơ, kịch cộm của người lớn; những sắc pháp khỏe mạnh, nhẹ nhàng, tế nhị trở thành những sắc pháp bệnh hoạn, nặng nề, thô kịch. Vị hành giả chuyên cần, thận trọng và xuyên thấu quán thân, nhận thức rằng những sắc pháp ấy phân tán ra thành những mảnh nhỏ vừa khi được ghi nhận. Nhận thức như vậy, vị nầy hiểu biết rằng không phải sắc pháp vi tế trở thành thô kịch, mà sắc pháp thô kịch cũng không trở thành vi tế. Những sắc pháp thô kịch, nóng, hay lạnh, không trở thành sắc pháp vi tế, lạnh, nóng; những sắc pháp vi tế, lạnh hay nóng không trở thành thô kịch, nóng hay lạnh. Những sắc pháp thô kịch, cứng còng, co giãn, luôn luôn di động, không trở thành vi tế, ổn định, ở yên. Tất cả đều tan biến vào lúc vừa khởi sanh; và do đó tất cả đều vô thường và vô ngã. Quán Chiếu Theo Ðặc Tính Thấp Hèn Hay Cao Thượng Thông thường người ta tin rằng những sắc pháp ươn yếu bệnh hoạn, thấp hèn, trở thành sắc pháp khỏe mạnh cao thượng; sắc pháp của tuổi trẻ trở thành sắc pháp của người già. Nhưng người hành thiền có chánh niệm chuyên cần theo dõi các sắc pháp vào lúc nó khởi sanh thì nhận thức rằng mọi sắc pháp đã khởi sanh đều phải chấm dứt và tan biến ngay vào lúc được ghi nhận và do đó vị ấy hiểu biết rằng sắc pháp thấp hèn không trở thành sắc pháp cao thượng, mà sắc pháp cao thượng cũng không trở thành thấp hèn. Do đó, bản chất của tất cả đều là khổ và vô ngã. Quán Chiếu Theo Ðặc Tính Xa Và Gần Người đời thường hiểu rằng hình như khi một người được thấy đi từ xa đến gần, người ấy đem theo với họ sắc pháp của người ở xa. Khi một người đi từ gần đến một nơi xa, hình như vị ấy mang theo sắc pháp của người ở gần đến xa. Nhưng vị hành giả luôn luôn ghi nhận hiện tượng sắc và danh hiểu rằng khi quán chiếu, thí dụ như, quán chiếu những hiện tượng duỗi ra của thân, sắc pháp mà duỗi ra tan biến trong một loạt những hình ảnh mù mờ biến dạng chớ không từ chỗ nầy đến một nơi nào khác; khi co lại, sắc pháp mà co lại biến dần trong một loạt biến dạng mù mờ chớ không đến một nơi nào khác. Nhận thức như vậy, vị hành giả tin chắc rằng sắc pháp ở gần không đi xa; sắc pháp ở xa không đến gần. Nó tan biến mỗi khi phát sanh và do đó là vô thường, khổ và vô ngã. Trong khi nhìn một người từ đàng xa đi lại gần và niệm, "thấy, thấy" ta thấy người ấy biến mất từng giai đoạn, từ chút từ chút, từng phần từng phần, trong một loạt biến dạng nhanh chóng mù mờ. Khi nhìn một người từ ở gần đi xa và niệm "thấy, thấy", người ấy biến mất từng giai đoạn, từ chút từ chút, từng phần từng phần, trong một loạt biến dạng nhanh chóng mù mờ. Như vậy không phải sắc pháp từ đàng xa đi đến gần; không phải sắc pháp từ gần đi xa. Sắc pháp cũ liên tục tan biến và sắc pháp mới liên tục khởi sanh, làm cho ta có cảm tưởng rằng có người từ xa đến và có người từ gần đi. Chỉ có vị hành giả đã tiến đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, và có khả năng phân biện sắc bén mới có thể nhận thức hiện tượng đúng như thật bằng cách nầy. Những người khác mà tuệ giác không đủ sắc bén sẽ không có thể nhận thức rõ ràng điều nầy. Nhắc lại, trong khi đi tới đi lui và niệm dở, bước, đạp, tác động dở chân lên được phân biệt riêng rẻ trong một giai đoạn, bước tới, được phân biệt riêng rẻ trong một giai đoạn và đặt chân xuống được phân biệt riêng rẻ trong một giai đoạn khác. Khi tuệ minh sát phát triển tốt đẹp những tác động của thân và chân, được thấy trong một loạt biến dạng mù mờ. Nhận thấy như vậy, hành giả đi đến kết luận rằng sắc pháp khi di chuyển từ nơi nầy đến nơi khác, nó chấm dứt và biến tan ngay tại nơi mà nó phát sanh. Ðó là hiểu biết đúng theo lời tuyên ngôn của Phụ Chú Giải, Ṅhững thực tại tuyệt đối không di chuyển từ nơi nầy đến nơi khác; nó chấm dứt và tan biến ngay tại nơi mà nó vừa phát sanh." Như vậy, sắc pháp từ xa không đến gần; sắc pháp từ gần không đi xa. Nó chấm dứt và tan biến ngay tại nơi mà nó phát sanh. Như vậy nó là vô thường, khổ, và vô ngã. Trên đây là như thế nào phương thức quán chiếu các sắc pháp theo mười một phương cách, đưa đến sự hiểu biết "đây không phải là của tôi" ... netaṁ mama. -ooOoo- from https://theravada.vn/chuong-vi-phan-tach-dac-tanh-vo-thuong/ THẤY VÔ NGÃ -ooOoo- Tất cả những thành phần cấu tạo ngũ uẩn đều vô ngã. Nhìn xuyên qua những đặc tính của các uẩn ta thấy điều nầy trở thành hiển nhiên. Bản Chú Giải mô tả những đặc tính ấy như sau: Không vâng lời làm theo ý muốn ta là một đặc tính của vô ngã. Trong kinh Vô Ngã Tướng, Anattalakkhaṇa Sutta, đặc tính nầy được diễn tả qua câu, "Ta không thể sai bảo sắc pháp, 'Thân ta hãy như thế nầy'." Lại nữa trong kinh nầy có câu "... nó có chiều hướng gây đau khổ ..." Bản chất gây đau khổ, làm khó chịu, áp bức, hay cưỡng chế, phải được xem là một hình thức khác của đặc tướng vô ngã. Trong bài kinh cũng có sự tìm hiểu, Ṅhận là tự ngã cái gì luôn luôn biến chuyển thì có thích nghi không?" Khi người hành thiền quan sát những đặc tướng trên mỗi khi nó khởi sanh thì phát triển trí tuệ nhận thấy rằng cả hai, sắc uẩn và danh uẩn, đều không phải là tự ngã mà chỉ là những hiện tượng không ngừng sanh diệt. Tuệ nầy được gọi là anattānupassanā ñāṇa, tuệ giác phát triển do công phu quán niệm những đặc tính vô ngã. Bài kinh (sutta) nầy được gọi là Anattalakkhaṇa, Vô Ngã Tướng, vì đề cập đến những đặc tính vô ngã. Khó Thấu Hiểu Ðặc Tướng Vô Ngã "Ðặc tướng vô thường và khổ có phần dễ hiểu, nhưng đặc tướng vô ngã thì khó thông hiểu", chú giải Sammohavinodanī nói như vậy. Theo chú giải nầy, những lời than như "Than ôi, thật là vô thường, quả thật là phù du tạm bợ" sẵn sàng đến với tâm ta mỗi khi vô tình làm rớt bể một cái hủ. Lại nữa khi bị mụt nhọt, một vết thương hay bị gai đâm chích ta liền than thầm, "Than ôi, quả thật đau nhức, khó chịu". Bằng cách ấy đặc tướng vô thường và khổ được nhận thấy rõ ràng và dễ hiểu. Nhưng cũng như rất khó mà chỉ cho ai khác tìm một vật nằm trong tối, không thể hiểu biết dễ dàng đặc tướng vô ngã. Ðặc tướng vô thường và khổ được hiểu biết rộng rãi, ở trong cũng như ở ngoài giáo lý nhà Phật, nhưng đặc tướng vô ngã chỉ được đề cập đến trong Phật Giáo. Những vị ngoài Phật Giáo như đạo sĩ ẩn dật Sarabaṅga chỉ có thể thuyết giảng về bản chất vô thường và đau khổ, còn lý vô ngã thì vượt hẳn ra ngoài tầm hiểu biết của các Ngài. Nếu các vị đạo sĩ ấy có thể dạy lý vô ngã thì những đệ tử của họ đã có thể chứng đắc Ðạo Tuệ và Quả Tuệ, nhưng vì các Ngài không thể dạy nên không có ai thành đạt Thánh Ðạo và Thánh Quả. Phẩm chất và đặc tính cá biệt đặc thù của một Ðấng Chánh Ðẳng Chánh Giác là có đủ khả năng giảng dạy lý vô ngã. Những vị đạo sư ngoài Phật Giáo không tiến được đến mức tế nhị và sâu sắc của giáo lý nầy. Bản Chú Giải nói rằng giáo lý vô ngã thâm sâu đến độ chí đến Ðức Thế Tôn cũng phải dựa trên đặc tướng vô thường hoặc đặc tướng đau khổ hoặc cả hai cùng một lúc để giải thích dễ dàng. Bản Phụ Chú Giải giảng rộng thêm: "Trong tuyên ngôn trên của Bản Chú Giải, ngoài Phật Giáo hai đặc tướng anicca và dukkha, vô thường và khổ, chỉ được hiểu theo nghĩa chế định (tục đế), nên không thể dùng làm phương tiện để chứng ngộ lý vô ngã. Chỉ có vô thường và khổ hiểu theo chân lý cùng tột (chân đế) mới có thể xử dụng để giải thích lý vô ngã." Sư đã dùng Phụ Chú ấy để mô tả khái niệm chế định (tục đế) và khái niệm cùng tột (chân đế) của anicca và dukkha, trong sách Sīlavanta Sutta. Có thể tham khảo để có thêm chi tiết. Thấy Vô Ngã Qua Ðặc Tướng Vô Thường Trong kinh Chachakka Sutta, phần Uparipaṇṇāsa của bộ Majjhima Nikāya, Trung A Hàm, ta thấy đặc tướng vô thường được dùng làm phương tiện để giải thích đặc tướng vô ngã. Theo bài Kinh nầy người hành thiền phải hiểu sáu phân hạng của sáu yếu tố như sau:
Nơi đây theo Bản Chú Giải, đoạn "phải hiểu biết" có nghĩa là "phải hiểu biết xuyên qua công phu quán niệm minh sát, vipassanā, hiểu biết bằng trí tuệ của Thánh Ðạo". Do đó mỗi khi một vật được thấy, vật ấy phải được chú tâm ghi nhận (niệm) để mắt và đối tượng được thấy, nhãn thức, nhãn xúc và thọ cảm xuyên qua mắt, khởi sanh hiển hiện rõ ràng cùng lúc trong khi thấy. Và trong lúc thấy nếu có sự ưa thích hay ham muốn vật ấy khởi sanh, sự ưa thích và ham muốn ấy phải được ghi nhận, "ưa thích, ưa thích". Cùng thế ấy, trong khi nghe, khi hửi, nếm, sờ đụng, và suy tư phải hiểu biết sáu hạng sáu đối tượng ấy. Vị hành giả mà hay biết đúng lúc như vậy tự cá nhân mình sẽ nhận thức rằng mắt, đối tượng được thấy và sự thấy (nhãn thức) khởi sanh và chấm dứt. Vị ấy chứng nghiệm, "Trước đây ta nghĩ rằng có một thực thể thường còn, một tự ngã hằng cửu. Giờ đây, qua sự chứng nghiệm bằng cách thật sự quán sát ta nhận thức rằng chỉ có những hiện tượng thiên nhiên không ngừng sanh diệt." Nhận thức rằng không có một tự ngã, không có một thực thể sống, người hành thiền có thể ngạc nhiên không biết mình ngồi đây hành thiền cho ai. Xuyên qua sự hiểu biết đầy đủ về bản chất vô thường của vạn hữu hành giả chứng ngộ rằng không có một tự ngã. Ðể chỉ dạy rõ ràng kinh nghiệm thực tiển nầy Ðức Thế Tôn tiếp tục bài kinh Chachakka Sutta như sau: "Phần nhạy của mắt, là nền tảng của sự thấy (nhãn thức) khởi sanh và chấm dứt mỗi khi thấy; do vậy nó không phải thường còn, không tồn tại vĩnh viễn, không phải là thực thể hằng cửu vững bền, là tự ngã, như hình như nó là vậy. Nếu ta nói, 'mắt là tự ngã' thì cũng giống như nói rằng tự ngã của ta khởi sanh và hoại diệt, không ổn định, không tồn tại vững bền. Do đó ta phải kết luận rằng phần nhạy của mắt không phải là tự ngã." Cùng thế ấy ta có thể kết luận tương tợ đối với hình thể (đối tượng của sự thấy), nhãn thức, nhãn xúc (tức sự tiếp xúc giữa mắt và đối tượng của mắt), và sự ưa thích và ham muốn của mắt: tất cả đều không phải tự ngã. Ðó là phương cách mà sáu hiện tượng, trở thành nổi bật vào lúc nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư, được xem là vô ngã. Thấy Vô Ngã Xuyên Qua Ðặc Tướng Ðau Khổ Chính trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, đặc tướng vô ngã được giải thích bằng đặc tướng khổ như sau: "Vì hình sắc không phải là tự ngã của ta nên có chiều hướng gây đau khổ cho ta." Cái gì cưỡng chế hay áp bức ta là đáng cho ta sợ, là nguyên nhân gây đau khổ và rất hiển nhiên là một nguồn đau khổ, không thể là chính ta, là tự ngã, là thực thể sống bên trong ta. Thấy Vô Ngã Xuyên Qua Cả Hai Ðặc Tướng, Vô Thường Và Khổ Nhằm giải thích đặc tướng vô ngã bằng cả hai, vô thường (anicca), và khổ (dukkha), Ðức Thế Tôn dạy: "Thân không thường còn. Cái gì không thường còn là (nguyên nhân gây) đau khổ. Cái gì đau khổ không phải là tự ngã. Cái gì không phải tự ngã phải được nhận thức với trí tuệ thích nghi theo đúng sự thật là, 'Ðây không phải là của tôi, cái nầy không phải là tôi, cái nầy không phải là tự ngã của tôi'." Tóm tắt, cơ thể vật chất phải biến đổi và khổ đau, và như vậy không phải là tự ngã. Xem là "của tôi" cái gì thật sự không phải tự ngã thì không thích nghi; lầm lạc tự nghĩ "tôi là ..., tôi có thể làm ...", là không thích nghi; xem đây là "tự ngã của tôi", là "chính tôi" là không thích nghi. Như thế ấy sắc, hay cơ thể vật chất, phải được nhận ra và xem đúng theo thực tại. Cùng một thế ấy, do những đặc tướng vô thường và khổ, thọ, tưởng, hành và thức cũng phải được xem là không phải tự ngã. Trong phần sau của kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, ta sẽ thấy bản chất vô ngã được mô tả căn cứ trên đặc tướng vô thường (anicca) và đau khổ (dukkha). Những khái niệm vô thường và khổ, anicca và dukkha, được biết và được chấp nhận rộng rãi, nhưng lý vô ngã thì không mấy được chấp nhận bên ngoài Phật Giáo. Vào thời của Ðức Phật có một vị đạo sĩ ẩn dật tên Saccaka đến gặp Ðức Thế Tôn và thảo luận về vấn đề nầy. Cuộc Thảo Luận Với Ðạo Sĩ Saccaka Saccaka là đạo sư của những hoàng tử ở thành Vesālī. Ông hỏi Ðức Assaji, vị sư trẻ tuổi nhất trong nhóm năm vị đạo sĩ được gọi là năm anh em Kiều Trần Như, "Ðạo Sĩ Gotama (Cồ Ðàm) dạy đệ tử như thế nào? Những lời dạy của Ngài cốt yếu là gì?" Ðức Assaji trả lời, "'Sắc, thọ, tưởng, hành và thức là vô thường, không phải tự ngã.' Ðó là những lời dạy của Ðức Bổn Sư; đó là điểm trọng yếu trong giáo huấn mà Ngài ban truyền." Ðến đây Ðạo Sĩ Saccaka nói, Nầy Ðạo Hữu, chúng tôi có nghe một lời nói sai lầm tệ hại, không đúng. Chúng tôi nghe rằng Ðạo Sĩ Gotama dạy giáo lý vô ngã. Ðối với chúng tôi như vậy là xấu, sai, không đúng. Một ngày nào tôi sẽ có cơ hội gặp Ðạo Sĩ Gotama và sửa sai, làm cho ông từ bỏ giáo lý tệ hại tội lỗi và đáng ghét, quan điểm sai lầm về tự ngã ấy." Ðó là một thí dụ cho thấy người chấp ngã thường nhìn giáo lý vô ngã là thấp kém như thế nào. Ðối với họ, nghe đến lý vô ngã của Ðức Thế Tôn rõ ràng là hiểm nguy độc hại. Vị đạo sĩ du phương còn nói đến việc làm cho Ðức Thế Tôn từ bỏ "tà kiến" của Ngài. Những người cuồng tín độc đoán tin vào tín điều của họ luôn luôn có đầu óc như vậy; họ khư khư ôm giữ quan điểm của mình và tự cao xem thấp người khác. Dầu là những vị đang dạy đúng theo kinh điển Pāli họ cũng phỉ báng, làm hạ thấp giá trị. Thông thường những người hay lớn tiếng chỉ trích chê bai như thế lại là những vị kém hiểu biết kinh điển hoặc không đủ kinh nghiệm trong pháp hành. Saccaka không học đủ những lời dạy của Ðức Phật và không hiểu biết Giáo Pháp (Dhamma) qua kinh nghiệm của pháp hành. Ông chỉ có một ý niệm sai lầm, xem Giáo Pháp là thấp kém và tự phụ, hãnh diện rằng mình cao hơn nhiều. Do đó ông cố đi gặp Ðức Thế Tôn để tranh luận. Ông chắc chắn rằng mình sẽ thắng và, muốn cho mọi người mục kích sự thắng cuộc vẻ vang ấy ông mời theo những người trong hoàng tộc Licchavi của thành Vesālī, khoe khoang rằng khi tranh luận về vấn đề giáo lý ông ta sẽ "quây quần Ðức Phật như người to lớn mập mạnh chụp đầu một đứa trẻ và quây vòng." Khi đến trước mặt Ðức Thế Tôn vị đạo sĩ xin phép Ngài được nêu lên những câu hỏi. Ông hỏi, "Bạch Ðức Gotama, các vị đệ tử của Ngài được dạy như thế nào? Ðiểm chánh yếu của giáo huấn ấy là gì?" Ðức Thế Tôn cũng trả lời y như câu trả lời của Ðức Assaji: "Sắc, thọ, tưởng, hành, và thức là vô thường, vô ngã. Như Lai dạy đệ tử như vậy. Ðó là điểm chánh yếu của giáo huấn." Ðến đây Ðạo Sĩ Saccaka đưa ra một thí dụ: "Bạch Ðức Gotama, hột giống và mầm non phải nương nhờ nơi đất, nó phải tùy thuộc nơi đất để vươn mình mọc lên thành cây con và cây lớn; cùng thế ấy, mỗi hành động được thực hiện với nghị lực và sức mạnh cũng cần phải có đất để nâng đỡ, con người có cơ thể vật chất như một tự ngã có thực chất, attā, và phải tùy thuộc nơi hình thể vật chất ấy để có những hành động thiện hay bất thiện. Ta tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành và thức như một tự ngã có thực chất và tùy thuộc nơi thọ, tưởng, hành, và thức để thực hiện những hành động thiện và bất thiện." Những lời quả quyết xác nhận nầy có nghĩa là hột giống và cây phải tùy thuộc nơi sự nâng đỡ của đất để mọc lên; cùng thế ấy, tất cả những loại sinh hoạt cũng cần phải có nghị lực và sức mạnh. Như cây cối cần sự nâng đỡ của đất, hành động thiện và bất thiện do những cá nhân thực hiện cần phải có sắc, thọ, tưởng, hành, và thức như tự ngã; chính nhờ tùy thuộc nơi những cái "ta" ấy mà hành động được thực hiện. Cũng chính những cái "ta" gặt hái hậu quả (tốt hay xấu) của hành động. Nếu hình sắc vật chất là vô ngã, không có tự ngã, thì cái gì nâng đỡ những hành động tạo thiện hay bất thiện nghiệp, và ai sẽ gặt quả? Ðiều nầy đã vượt khỏi phạm vi lý trí của những vị đệ tử. Các vị nầy không hiểu biết phải giải thích như thế nào giáo lý xem tự ngã như đất. Chỉ Ðức Thế Tôn mới có thể nắm vững vấn đề, Bản Chú Giải nói như vậy. Ðức Thế Tôn hỏi vị đạo sĩ, Nầy Saccaka, phải chăng ông chủ trương rằng sắc là tự ngã, thọ là tự ngã, tưởng là tự ngã, hành là tự ngã, thức là tự ngã?" "Ðúng vậy, Bạch Ðức Gotama, tôi chủ trương như vậy, và những người ở đây cũng đều hiểu biết như vậy." Ðức Thế Tôn nhấn mạnh" "nầy Saccaka, hãy để yên qua một bên quan điểm của các vị khác; hãy để tâm lắng nghe những gì chính ông trình bày." Ý định của Saccaka là muốn chia sớt trách nhiệm với những người cùng đi chung nếu ông có nói điều gì đáng bị khiển trách, nhưng Ðức Thế Tôn thúc giục ông nên tự mình nhận lấy trọn trách nhiệm. Ông buộc lòng phải chấp nhận rằng chính mình chủ trương, "sắc là tự ngã, thọ là tự ngã, tưởng là tự ngã, hành là tự ngã, thức là tự ngã." Chừng ấy Ðức Thế Tôn hỏi: "Nầy Saccaka, những người cầm quyền cai trị đất nước như Vua Pasenadi (Ba Tư Nặc) và Vua Ajātasattu (A Xà Thế) chẳng hạn, các Ngài có đủ quyền năng hành hình những ai phải bị hành hình, phạt những ai đáng bị phạt, đày ải những ai đáng bị đày. Những vị ấy có đủ quyền thống trị quốc gia của mình, có phải vậy không, Saccaka?" "Các vì quốc vương ấy quả thật là chúa tể trong vương quốc. Các Ngài có đủ quyền thống trị đất nước: chí như những vị Licchavi, được dân chúng bầu làm chúa, cũng nắm đủ quyền hành quyết, hình phạt, hay đày ải trong xứ mình." Saccaka trả lời, ông đã vượt qua giới hạn của câu hỏi, không ngờ hậu quả của nó tai hại như thế nào đối với đức tin của mình. Ðức Thế Tôn bèn hỏi: "Nầy Saccaka, Ông nói rằng sắc là tự ngã, là cái "ta" của Ông, vậy Ông có trọn quyền kiểm soát, sai bảo, "Cái 'ta của tôi' hãy như thế nầy, cái 'ta của tôi' hãy không như thế kia" không? Ông có quyền kiểm soát và sai khiến nó như thế không?" Lúc bấy giờ Saccaka kẹt vào thế tấn thối lưỡng nan. Giáo lý "chấp ngã" của ông chủ trương rằng ta có quyền kiểm soát và sai bảo thân theo ý muốn. Chấp thủ sāmi attā mà chúng ta đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần, chấp rằng có thể kiểm soát, làm cho "cái ta" phải như thế nào theo ý muốn của mình. Ðến đây, vì Saccaka đã xác nhận rằng các vì vua chúa có trọn quyền điều khiển và kiểm soát "vương quốc của mình" thì đương nhiên ông cũng công nhận rằng cơ thể vật chất nầy mà ông chấp là "của mình" cũng phải có thể được kiểm soát và điều khiển tùy theo ý mình. Nếu ông chấp nhận như vậy, câu hỏi sắp đến sẽ là ông có thể điều khiển cái thân của ông, bảo nó vẫn mãi mãi trẻ trung như thân hình các vị hoàng tử dòng Licchavi kia không? Nếu ông trả lời rằng mình không thể sai bảo như thế thì điều nầy có nghĩa là ông chấp nhận rằng mình không thể kiểm soát thân, và do đó thân không phải là "ta", hay tự ngã. Tự thấy mình đang ở trong thế kẹt, tới không được mà lui cũng không được Saccaka lặng thinh, không trả lời. Ðức Thế Tôn lặp lại câu hỏi lần thứ nhì, nhưng Saccaka vẫn giữ im lặng. Trước khi hỏi lần thứ ba Ðức Phật cảnh cáo: "Nầy Aggivessana [*], Ông nên trả lời câu hỏi của Như Lai. Giờ phút nầy không nên giữ im lặng. Khi được một vị Tathāgata, Như Lai, hỏi đến lần thứ ba mà không trả lời ắt đầu sẽ bị bể làm bảy miếng."
Vào lúc bấy giờ được nói là có một vị thiên lôi từ cảnh trời tay cầm lưỡi tầm sét bay lượn quanh quẩn trên đầu Saccaka. Chỉ có Ðức Thế Tôn và Saccaka nhìn thấy. Cũng giống như ngày nay có vài người thấy ma, chỉ có những người ấy, người khác không thấy. Thấy thiên lôi sẵn sàng để bửa đầu mình Saccaka kinh hoàng sợ hải; nhưng khi nhìn thấy mọi người có vẻ bình thường không lo sợ thì ông nhận biết rằng những người kia không ai thấy thiên lôi, chỉ có một mình ông. Do đó ông không thể nói rằng mình bị thiên lôi ép buộc phải trả lời như thế nào. Biết rằng lúc bấy giờ chỉ còn Ðức Thế Tôn là nơi mà ông có thể nương tựa, không ai khác, Saccaka phục tùng bạch Phật: "Xin Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi, tôi sẵn sàng giải đáp." Ðến đây Ðức Thế Tôn hỏi: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ thế nào về điều nầy? Ông nói rằng sắc là tự ngã; vậy Ông có thể bảo cái tự ngã ấy, 'Thân nầy hãy như thế nầy, thân nầy hãy không như thế kia', theo như ý Ông muốn được không?" "Bạch Ngài không, ta không có quyền kiểm soát nó", Saccaka trả lời, ngược lại với ý mình. Trước kia ông nói rằng sắc là tự ngã; nếu sắc là tự ngã của ông ắt nó phải phục tùng quyền kiểm soát của mình. Giờ đây ông nói rằng không thể kiểm soát sắc, như vậy đương nhiên ông chấp nhận rằng sắc không phải là tự ngã. Khi Ðức Thế Tôn nghe Saccaka nói ngược lại với ý ông như vậy thì mở lời cảnh giác: "Nầy Aggivessana, hãy coi chừng, hãy cẩn thận với những gì Ông nói. Những gì Ông nói sau nầy không thích ứng với những gì Ông đã nói trước. Những gì Ông nói trước không đúng với những gì Ông nói sau. "Bây giờ, nầy Aggivessana, Ông nghĩ như thế nào? Ông đã nói rằng thọ là tự ngã của Ông, vậy Ông có thể sai bảo chăng cái tự ngã ấy, 'Thọ nầy hãy như vầy, thọ nầy hãy không như thế kia, đúng theo như ý Ông muốn không?" "Bạch Ngài không, ta không có quyền kiểm soát." Ðức Thế Tôn nêu lên những câu hỏi tương tợ về tưởng, hành, thức và mỗi lần trước khi hỏi Ngài cũng nhắc chừng Saccaka nên thận trọng không nói ngược với ý mình. Mỗi lần Saccaka trả lời tương tợ, rằng đối với tất cả năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức, ta không có quyền năng kiểm soát uẩn nào. Rồi Ðức Phật hỏi, vậy sắc là thường còn hay vô thường. "Bạch Ngài, là vô thường". "Cái gì không thường còn, cái đó là khổ hay lạc?" "Bạch Ngài, là khổ", Saccaka trả lời. "Vậy, cái gì là vô thường, khổ và phải luôn luôn biến đổi, có thích ứng không nếu ta xem đó, 'cái nầy là của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?" "Bạch Ngài, không", ông trả lời. Ðức Phật nêu lên cùng một câu hỏi về thọ, tưởng, hành, thức, và Saccaka trả lời tương tợ. Rồi Ðức Thế Tôn hỏi thêm: "Nầy Aggivessana, Ông nghĩ sau về điều nầy? Người nọ khư khư chấp thủ những uẩn vốn gây đau khổ ấy, bám siết vào, nắm chặt lấy, ôm giữ chắc lại, tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'; con người có quan kiến như vậy có thế nào hiểu biết thật sự và thấu đáo đau khổ là gì và có thể chấm dứt đau khổ không?" Câu hỏi nầy quả thật thâm sâu: nếu người kia biết rằng các sắc uẩn và danh uẩn ấy là đau khổ mà vẫn thỏa thích hưởng thụ trong sắc pháp và danh pháp phát hiện nơi sáu cửa giác quan và nghĩ rằng, "đây là tôi, đây là của tôi, đây là tự ngã của tôi". Người ấy có thế nào chấm dứt đau khổ không? Có thể nào người ấy loại trừ đau khổ không? Saccaka trả lời theo câu hỏi: "Bạch Ngài Gotama, người ấy làm thế nào hiểu được chân lý về sự đau khổ hay chân lý về sự chấm dứt đau khổ? Bạch Ngài, không thể được." "Trong trường hợp nầy," Ðức Thế Tôn hỏi, "Có phải không ông là người chấp thủ những uẩn đau khổ ấy, bám siết vào, nắm chặt lấy, ôm giữ chắc lại, là người tin chắc rằng, 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?" Saccaka trả lời, "Bạch Ngài, chính tôi là con người như vậy. Làm sao tôi có thể khác?" Ðạo sĩ Saccaka rất hãnh diện với niềm tin chắc vào tự ngã của mình. Ông rất tự đắc và khoe khoang về điểm nầy, nhưng khi Ðức Thế Tôn rọi sáng vấn đề, ông phải chấp nhận rằng quan kiến của ông là sai lầm. Niềm tin vào một cái ta, attavāda, của ông hoàn toàn tan biến. Ðể đánh một đòn cuối cùng vào cái ngã được thổi phồng, tánh kiêu căng và khoe khoang khoác lác của ông Ðức Thế Tôn kể một câu chuyện: "Nầy Aggivessana, thí dụ như có người kia vào rừng muốn chặt một cây có lỏi cứng. Anh thấy một cội cây loại cây chuối và nghĩ rằng cây ấy có lỏi cứng bên trong nên đốn ngã xuống. Rồi anh tỉa ngọn, rong nhánh, chặt phần trên của cây và bắt đầu lột vỏ. Hết lớp nầy đến lớp khác anh không tìm thấy gỗ, nói chi đến lỏi cứng. "Cùng thế ấy, khi Như Lai nghiên cứu thuyết hữu ngã của Ông thì thấy nó rỗng không, không có thể chất bên trong. Giữa đám đông trong thành Vesālī Ông khoe khoang rằng: 'không ai có thể tranh luận với ta mà không toát mồ hôi, rung rẩy lập cập; ta chưa từng gặp một đạo sĩ hay Bà La Môn hay bất cứ ai đã tự xưng là A La Hán, bậc toàn giác mà có thể chịu đựng nổi với ta trong cuộc tranh luận, không rung rẩy hay toát mồ hôi dầm dề. Chí đến một cột trụ vô tri vô giác, khi tranh luận với ta cũng phải rung rẩy và ngã xuống đất, nói chi đến con người.' Ông có khoe khoang như thế không, Aggivessana! Ðiều xảy ra là vài giọt mồ hôi từ trên lông nheo Ông đã nhỏ xuống y ngoại và rơi xuống đất. Còn Như Lai thì không có giọt mồ hôi nào trong mình." Ðức Thế Tôn nói vậy và vén y cho mọi người thấy một phần thân mình khô ráo không có một giọt mồ hôi. Ðạo sĩ Saccaka không còn gì để trả lời, lúng túng và bất ngờ, hai vai sụ xuống và cúi đầu ngồi lặng thinh. Rồi một người trong nhóm tùy tùng của ông, một hoàng tử dòng Licchavi tên Dummukha đứng dậy xin Ðức Thế Tôn cho phép ông nêu lên một thí dụ. Khi được Ðức Phật cho phép, Dummukha, vị Hoàng Tử dòng Licchavi bạch, "Bạch Ngài, gần thành phố có một vũng nước, và trong vũng nước ấy có một con cua đang sống. Trẻ con từ trong thành ra đó đùa nghịch bắt con cua bỏ trên đất liền. Cua quờ quạng quơ càng que vung vẩy. Mỗi lần con cua dở càng hay que lên thì trẻ con lấy cây đập. Một hồi càng que xơ xác, con cua không thể chạy trở xuống vũng nước. Cùng thế ấy Bạch Ngài, Ngài đã bẻ gảy gai góc và những mũi nhọn của tà kiến, đã tiêu diệt mục trường, bãi cỏ sinh sống và những tác động của tà kiến. Giờ đây Saccaka không còn gì để tranh luận với Ngài." Trong khi Dummukha, hoàng tử dòng Licchavi trình bày với Ðức Thế Tôn thì các vị khác cũng nóng lòng chờ đợi tới phiên mình để nói lên về Saccaka với những câu chuyện thí dụ khác. Thấy tình hình diễn tiến không mấy tốt đẹp, người nầy đến người kia sẽ chồng chất những điều sĩ nhục trên vai ông, Saccaka quyết định ngăn chận Dummukha lại, không để nói thêm: "Hãy ngưng lại Dummukha, chúng ta đang thảo luận với Ðức Gotama chớ không phải với Ông." Rồi ông bạch với Ðức Thế Tôn, "Bạch Ngài Gotama, hãy để yên như vậy, tôi muốn chấm dứt nơi đây những gì tôi nói và những gì người khác nói. Ðó là những câu chuyện bâng quơ, không ý nghĩa quan trọng." Rồi ông bạch hỏi Ðức Thế Tôn: Trong Phật Giáo phải thực hành thế nào để tiến đạt đến mức có thể chế ngự hoài nghi và có đức tin vững chắc không lay chuyển. Ðức Thế Tôn dạy ông rằng ta phải hành thiền cho đến giai đoạn có thể thấy với tuệ minh sát và Ðạo tuệ, rằng năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức mà người đời thường khái niệm sai lầm là "của ta", "ta", "tự ngã của ta" trong thực tế không phải "của ta", "không là ta", "không là tự ngã của ta". Saccaka cũng muốn biết thực hành như thế nào để trở thành một vị Arahat, A La Hán. Ðức Phật dạy: "Sau khi chứng ngộ rằng sắc uẩn và danh uẩn không phải "của ta", không phải là "ta", không phải là "tự ngã của ta", ta phải tiếp tục thực hành cho đến khi hoàn toàn buông xả, không mảy may bám níu và luyến ái." Cuộc biện luận giữa Saccaka và Ðức Thế Tôn cho thấy loại tà kiến chủ trương rằng tất cả năm uẩn là tự ngã và những người chấp thủ thuyết hữu ngã lúc nào cũng xem thường những người tin lý vô ngã mà họ xem là thấp kém. Một loại tà kiến khác chủ trương rằng chỉ có một uẩn là tự ngã. Hiển nhiên đó là trường hợp chấp thủ tự ngã của Sāti, được trình bày ở chương IV và cũng là chấp thủ vedaka attā và chấp thủ kāraka attā. Biện Luận Về Một Tự Ngã Ðộc Lập Trong thời hiện đại còn có xuất hiện một thứ chấp ngã khác, bám níu vào một cái ta. Như đã được đề cập đến trong các sách Triết Học Ấn Ðộ, loại chấp thủ tự ngã mới mẻ nầy không nhắc đến năm uẩn và khẳng định rằng có tự ngã hiện hữu hoàn toàn ngoài năm uẩn. Ðây chỉ là một ý kiến, và ý kiến nầy nên được loại bỏ bởi vì không có năm uẩn ắt không thể có tự ngã. Hãy bình tâm suy nghĩ: nếu không có sắc pháp ta không thể kinh nghiệm tự ngã dưới một hình thể hay thể chất nào. Nếu danh pháp vẫn hiện hữu, có thể có sự bám níu vào danh pháp ấy giống như người thế gian (puthujjana, người chưa giác ngộ) luyến ái cảnh giới vô sắc. Nhưng không có danh pháp thì không có gì để chấp là tự ngã. Nếu không có thọ ắt không có chấp thủ thọ lạc hay thọ khổ. Trong trường hợp không có tưởng, ắt không thể có luyến ái khởi sanh nhận ra hay hồi nhớ. Không có thức, không thể hay biết gì, và nếu không có hành như ý muốn làm (tác ý), ắt tự ngã không thể hành động gì được. Do đó một tự ngã như thế đó chỉ hiện hữu trong danh nghĩa, không thể có tác dụng và ta cũng không thể mô tả. Vậy, mặc dầu họ khẳng định rằng cái ta của họ hiện hữu ngoài năm uẩn nhưng hiển nhiên họ vẫn chấp thủ vào một, hay tất cả năm uẩn. Không thể chấp vào một cái ta riêng rẽ hiện hữu ngoài năm uẩn. Như vậy trong kinh Anattalakkhaṇa Sutta, Vô Ngã Tướng, ta thấy những chữ, "sắc không phải tự ngã; thọ không phải tự ngã; tưởng không phải tự ngã; hành không phải tự ngã; thức không phải tự ngã" hoàn toàn loại bỏ và biện bác tất cả mọi hình thức chấp ngã, dầu xem cái ngã ấy nằm ngoài năm uẩn hay nằm bên trong một, hai, ba, bốn hay tất cả năm uẩn. Nếu chấp sắc uẩn là tự ngã thì bốn uẩn còn lại là những thành phần, là đặc tính và sự nâng đỡ của cái ngã ấy và như vậy cũng là chấp ngã. Nếu chấp một trong bốn uẩn kia, như thọ uẩn chẳng hạn, là tự ngã, thì bốn uẩn còn lại cũng được xem như thành phần, là đặc tính và sự nâng đỡ của cái ngã ấy. Tuyên ngôn "sắc pháp không phải là tự ngã" biện bác loại trừ tất cả những loại chấp ngã ấy. Ðức Thế Tôn đã giải thích đầy đủ về lý vô ngã nhưng để giải rõ thêm, Ngài dựa trên hai đặc tướng vô thường, khổ, và dạy: Taṁ kiṁ maññatha bhikkhave rūpaṁ niccaṁ vā aniccaṁ vāti. Aniccaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukhaṁ vā taṁ sukhaṁ vāti. Dukkhaṁ Bhante. Yampanāniccaṁ dukkhaṁ vipariṇāma dhammaṁ kallaṁ nu taṁ samanupassituṁ etaṁ mama eso hamasmi eso me attāti. No h'etam Bhante. "Nầy chư Tỳ Khưu, các con nghĩ thế nào? Hình sắc là thường còn hay vô thường?" "Bạch Ðức Thế Tôn, là vô thường." Ðức Thế Tôn hỏi Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu hình sắc có là thường còn hay không? Bạch Ngài, "Nó không thường còn". Câu trả lời nầy có thể được nói lên do một người thường, người có kiến thức nhờ nghe ai khác dạy, nhưng Ðức Thế Tôn muốn một câu trả lời dựa trên tuệ giác mà chính người trả lời đã chứng nghiệm, và trong Nhóm Năm Vị Tỳ Khưu, tất cả đều đã chứng ngộ Ðạo Quả Tu Ðà Huờn, tức đã tự mình chứng nghiệm chân lý. Câu trả lời của các vị nầy dựa trên tuệ giác của chính bản thân mình. Ðó là ý muốn của Ðức Phật. Quý vị hành giả trong thiền viện đây cũng có thể trả lời câu hỏi nầy dựa trên kiến thức bản thân của mình. Khi niệm "phồng", hành giả nhận thức rõ ràng hiện tượng giãn ra, ép lên, và di chuyển của bụng. Những hiện tượng giãn ra, ép lên và cử động là sự biểu hiện của nguyên tố gió (vāyo dhātu). Trước đó không có những hiện tượng ấy; nó trở nên hiển hiện khi bụng bắt đầu phồng lên. Như vậy đó là sự sanh khởi, rồi trở thành, của hiện tượng. Di động phồng lên của bụng là sự bắt đầu sanh khởi của hiện tượng được hành giả thận trọng quán sát và ghi nhận. Khi di động phồng lên chấm dứt, những hiện tượng giãn ra, ép lên và di động của bụng không còn nữa. Ta nói là nó ngưng lại, tan biến, chấm dứt, diệt. Như vậy khi quán niệm di động phồng lên của bụng người hành thiền cũng nhận thức trạng thái sanh khởi rồi hoại diệt, tan biến. Hiện tượng tan biến tiếp liền theo sự sanh khởi và trở thành nầy chắc chắn là đặc tướng của vô thường: sanh, trụ, diệt. Chứng nghiệm đặc tướng vô thường trong khi niệm phồng xẹp ở bụng là thật sự minh sát bản chất vô thường aniccānupassanā ñāṇa. Tuệ giác hiểu biết đặc tướng vô thường phát sanh do quán niệm trạng thái khởi sanh và hoại diệt là sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, mức đầu của một loạt mười tuệ giác phát triển do thiền Minh Sát. Sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, chỉ nhận thức trạng thái khởi sanh và hoại diệt của những hiện tượng tâm vật lý mà chưa tri giác đầy đủ những chi tiết vi tế ở khoảng giữa. Ðây chỉ là kiến thức thâu thập nhờ thấy được hiện tượng trở thành và tan biến của những tiến trình liên tục tiếp diễn, ngay vào lúc nó khởi sanh. Khi niệm phồng lên ở bụng, hành giả nhận thấy bụng bắt đầu phồng lên và chấm dứt. Hiểu biết sự khởi sanh của trạng thái phồng lên là hiểu biết sự trở thành, hiểu biết sự chấm dứt của trạng thái phồng lên là hiểu biết sự tan biến. Thấy rõ trạng thái trụ và diệt của mỗi di động phồng lên không thể có khái niệm lầm lạc rằng đó là thường còn. Khi niệm bụng xẹp, hành giả nhận thấy rõ ràng trạng thái thâu rút xẹp xuống của bụng. Ðó là sự di động của nguyên tố gió (vāyo dhātu). Thấy trạng thái khởi đầu và chấm dứt của di động xẹp xuống ở bụng là thấy nguyên tố gió. Khi bụng phồng lên thì không có di động xẹp xuống của bụng; chỉ đến lúc di động phồng lên chấm dứt hình sắc xẹp xuống của bụng mới bắt đầu hiện khởi. Rồi cuối cùng hình sắc xẹp xuống cũng tan biến. Ðó cũng là vô thường. Ðặc Tướng Vô Thường Anicca khayaṭṭhena: một điều kiện là vô thường bởi vì bản chất của nó là đi đến chấm dứt. Theo định nghĩa nầy, trạng thái xẹp xuống của bụng, biểu hiện qua di động thâu rút xẹp xuống đến cùng, chấm dứt không xuống nữa. Như vậy di động ấy là vô thường. Một Chú Giải khác định nghĩa hutvā abhāvato anicca: trước đó không hiện hữu, nó trở thành hiện hữu và rồi tan biến, như vậy là vô thường. Trong khi niệm, "xẹp, xẹp" và hay biết di động xẹp xuống của bụng từ lúc đầu đến lúc chấm dứt, hành giả chứng nghiệm bản chất vô thường của nó. Ðó là thật sự thấu hiểu bản chất vô thường (aniccānupassanā ñāṇa) ở mức độ sammasana ñāṇa, tuệ thấu đạt, nhận thấy trạng thái khởi sanh và chấm dứt của những tiến trình liên tục, ngay vào lúc nó xảy diễn. Ðến mức độ udayabbaya ñāṇa, tuệ sanh diệt, hành giả có thể phân biệt rõ ràng ba, bốn hay năm chặng khởi sanh và chấm dứt của hiện tượng trong khoảng thời gian bụng phồng lên và xẹp xuống. Khi tiến đạt đến giai đoạn bhaṅga ñāṇa, tuệ diệt, hành giả có thể phân biệt nhiều chặng chấm dứt rất nhanh chóng trong một di động phồng lên và xẹp xuống. Sắc pháp phồng lên và xẹp xuống của bụng ở trong trạng thái chấm dứt quả thật là vô thường. Khi co tay vào hay duỗi tay ra, thận trọng quán niệm, "co vào, co vào" hay "duỗi ra, duỗi ra" và rõ ràng nhận thấy mỗi cử động từ lúc bắt đầu đến lúc chấm dứt. Thấy được như vậy là nhờ tiến trình di động được thận trọng ghi nhận. Người thiếu niệm ắt không thể hay biết cử động co tay vào hay duỗi tay ra của mình. Hay dù có hay biết đi nữa người ấy không phân biệt rõ ràng lúc bắt đầu cử động đến lúc chấm dứt. Người ấy sẽ có cảm tưởng rằng cái tay ở đó trước khi co vào hay duỗi ra sẽ còn đó sau khi cử động. Khi co tay vào hay duỗi tay ra hành giả thấy có di động chậm chạp của tay mình từ khoảnh khắc nầy đến khoảnh khắc kế tiếp. Trong mỗi trường hợp co vào hay duỗi ra, lúc bắt đầu duỗi ra và di động là bắt đầu có sự hiện hữu của nguyên tố gió (vāyo dhātu), và khi chấm dứt cử động duỗi ra và di động là sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Khi niệm co vào, hiểu biết sự khởi đầu và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Cùng thế ấy, khi niệm duỗi ra và hiểu biết rõ ràng sự bắt đầu và sự chấm dứt của mỗi cử động duỗi ra là hiểu biết sự phát sanh và chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo). Trong khoảng thời gian của một cử động co vào hay duỗi ra, hiểu biết những di động chậm chạp khác nhau từ khoảnh khắc nầy đến khoảnh khắc khác cũng là hiểu biết sự phát sanh và hoại diệt của nguyên tố gió (vāyo), có đặc tính là giãn ra và di động. Sự di động từ từ của cánh tay biểu lộ hiển nhiên bản chất vô thường. Tuy nhiên, không thể chứng nghiệm chân lý nầy nếu không thận trọng quán niệm. Trong khi đi, hành giả niệm "mặt, trái", hiểu biết lúc khởi đầu và lúc chấm dứt của mỗi bước. Ðó là hiểu biết sự khởi sanh và sự chấm dứt của nguyên tố gió (vāyo) vốn có đặc tính làm duỗi chân ra và di động bước tới. Cùng thế ấy hành giả quán niệm cử động của chân lúc dở lên, đưa tới và đạp xuống, hiểu biết rành rẽ lúc tác động bước tới bắt đầu và lúc chấm dứt. Ðó cũng là hiểu biết sự phát sanh và hoại diệt của nguyên tố gió (vāyo). Hiểu biết di động từ từ của chân trong mỗi bước cũng là hiểu biết trạng thái sanh và diệt của nguyên tố gió (vāyo). Như vậy nguyên tố gió, vốn có nhiệm vụ đưa cái chân bước tới, cũng khởi phát và chấm dứt trong mỗi bước và do đó, là vô thường. Khi niệm cảm giác (thọ) xúc chạm ở bất luận nơi đâu trong thân, hiểu biết sự khởi sanh và chấm dứt của cảm giác đụng là hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp trong xúc giác. Hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp trong chính thân mình và vật mình chạm đến. Hành giả chứng nghiệm rằng cảm giác đụng chạm của cơ thể vật chất cũng không ổn định mà vô thường, bởi vì luôn luôn sanh diệt trong mỗi niệm. Khi niệm "nghe, nghe" hành giả ghi nhận rằng tiếng động vừa khởi sanh đã nhanh chóng tan biến. Ðó là hiểu biết trạng thái sanh diệt của âm thanh. Như vậy mỗi tiếng động đều là vô thường. Cùng với sắc pháp của tiếng động, sắc pháp (phần nhạy) của lỗ tai mà tiếng động chạm đến cũng sanh khởi và nhanh chóng hoại diệt. Như vậy có thể nói rằng một khi nhận ra sự khởi sanh và hoại diệt của âm thanh cũng hiểu biết sự khởi sanh và hoại diệt của sắc pháp (phần nhạy) trong lỗ tai. Như vậy hành giả cũng hiểu biết bản chất vô thường của tai. Tiếng hú của nhà máy xay lúa hay tiếng sủa của con chó, ta thường nghĩ là kéo dài, nhưng đối với vị hành giả mà tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển mạnh mẽ, những âm thanh ấy phát hiện từng loạt những khoảnh khắc vi tế, từng chặng, từng giai đoạn, tiếng nầy rồi đến tiếng kia. Hành giả chứng nghiệm rằng sắc pháp của âm thanh cũng phát khởi và hoại diệt rất nhanh chóng. Cùng thế ấy trong khi niệm "thấy, thấy", nếu tuệ minh sát (vipassanā ñāṇa) đã phát triển đến mức cao độ, vị hành giả cũng chứng nghiệm rằng nhãn thức và sự thấy cũng nhanh chóng khởi sanh và tan biến. Hình sắc được thấy, vốn khởi sanh và hoại diệt, cũng không thường còn. Sắc pháp (phần nhạy) của mắt, vốn đồng thời phát sanh và hoại diệt với hình sắc được thấy cũng là vô thường. Trong khi ăn, hành giả ghi nhận vị của thức ăn và hiểu biết khi vị ấy tan biến. Vị vừa khởi sanh đã nhanh chóng chấm dứt, quả thật là vô thường. Bản chất vô thường của vị rất rõ ràng. Vị ngon ngọt của thức ăn chỉ lưu lại ở lưỡi trong một thời gian ngắn và mau lẹ biến tan. Cùng với vị, sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cùng lúc cũng tan biến. Như vậy khi vị được nhận ra là vô thường, sắc pháp, hay phần nhạy của lưỡi cũng được nhận thức là vô thường. Vị hành giả liên tục quán niệm mùi hương hiểu biết rằng mùi liên tục khởi phát và tan biến, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc. Mùi khởi sanh và nhanh chóng tan biến, quả thật là vô thường, và phần nhạy của mũi cũng đồng thời nhanh chóng phát sanh và hoại diệt. Trong lúc niệm phồng xẹp ở bụng có những tư tưởng hiện khởi, hành giả phải thận trọng ghi nhận, và sẽ nhận thấy rằng vừa lúc niệm đến là suy tư ấy nhanh chóng biến tan. Mỗi khi suy tư tan biến thì sắc pháp (ý căn) làm nền tảng cho suy tư ấy cũng tan biến. Ý căn cùng khởi sanh và tan biến với mỗi suy tư không tồn tại lâu dài, cũng là vô thường. Những sắc pháp được đề cập ở phần trên, chính hành giả tự bản thân chứng nghiệm là vô thường, bằng cách liên tục ghi nhận những hiện tượng của ngũ uẩn. Những sắc pháp ấy liên hệ đến toàn thể châu thân, luôn luôn sanh rồi diệt, tự đổi mới trong từng khoảnh khắc, khi thấy, khi nghe, hửi, nếm, sờ đụng và suy tư. Giống như sắc pháp bên trong thân mình, sắc pháp trong thân những người khác cũng vậy, cũng đồng thời khởi sanh và tan biến. Thí dụ như khi ghi nhận âm thanh, "nghe, nghe", sắc pháp, hay phần nhạy của tai, cũng tức thì hoại diệt. Sắc pháp của những người khác trên thế giới cũng sanh diệt cùng thế ấy. Do đó Ðức Thế Tôn hỏi, "hình sắc là thường còn hay vô thường?" Nhóm Năm vị Tỳ Khưu đã tự bản thân chứng nghiệm bản chất vô thường của sắc uẩn trả lời, "Bạch Ngài, sắc là vô thường". Ðó là những câu hỏi về đặc tướng vô thường. Khi thấu hiểu tận tường đặc tướng vô thường thì cũng hiểu biết dễ dàng hai đặc tướng khổ và vô ngã. Vô thường có nghĩa là không thường còn, không tồn tại lâu dài. Bản Chú Giải định nghĩa là hutvā abhāvato anicca: trước đó không hiện hữu, nó trở thành, rồi liền chấm dứt. Ðó là những đặc tính của vô thường. Mọi người đều có trông thấy tia chớp khi trời sấm sét. Trước đó không hiện hữu, bỗng nhiên nhoáng lên trở thành, rồi tức khắc tan biến. Hiện tượng tia chớp có đủ tất cả những đặc tính của lý vô thường. Cái gì không hiện hữu bỗng nhiên khởi phát rồi nhanh chóng tan biến là có những đặc tính của trạng thái vô thường. Vị hành giả đã liên tục quán sát tiến trình hay biết, trông thấy sự vật khởi sanh và chấm dứt. Chỉ khi nào vị ấy thấu đạt tuệ giác, chính tự mình hiểu biết đặc tướng vô thường aniccānupassanā ñāṇa, tuệ minh sát thật sự mới phát triển. Trông thấy trạng thái tan biến, vị hành giả hiểu biết rằng đó là vô thường. Sự hiểu biết nầy là aniccānupassanā ñāṇa, tuệ minh sát thấu hiểu đặc tướng vô thường. Nhằm giúp phát triển tuệ giác nầy Ðức Thế Tôn hỏi, "Sắc pháp là thường còn hay vô thường?" Sư đã đề cập đến vấn đề vô thường một cách đầy đủ, giờ đây Sư giảng qua đặc tướng đau khổ. "Cái gì là vô thường, cái ấy là bất toại nguyện hay vừa lòng?" Ðức Thế Tôn nêu lên câu hỏi. Năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, là bất toại nguyện." Hai Loại Ðau Khổ (Dukkha) Có hai loại dukkha, đau khổ. Loại đầu tiên là trạng thái khó chịu đựng, đau khổ. Loại nầy là dukkha, đau khổ, bởi vì nó có tánh cách áp bức, ray rứt. Trạng thái luôn luôn chuyển biến, không ngừng sanh diệt, không phải là loại đau khổ nầy, mà thuộc về loại đau khổ thứ nhì, đúng theo định nghĩa của Bản Chú Giải: "Là đau khổ bởi vì nó đáng sợ". Hiện tượng không ngừng sanh diệt quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ, hay để dùng một danh từ của người Miến Ðiện, nó "không tốt". Câu hỏi, "Cái gì vô thường là đau khổ hay hạnh phúc, dukkha hay sukha?" cũng giống như hỏi "là xấu hay tốt?" Nhóm Năm vị Tỳ Khưu trả lời, "Là đau khổ, dukkha". Hay trong ngôn ngữ của người Miến, đó là "không tốt". Lý do nó là dukkha, không tốt, là vì luôn luôn sanh và diệt, và như vậy là đáng kinh sợ. Người ta tưởng tượng sự vật là sukha, tốt, vì sự vật có vẽ như tồn tại lâu dài và ổn định. Khi nhận ra rằng trong thực tế sự vật không tồn tại lâu dài mà chỉ trong khoảnh khắc và không ngừng tan biến, thì không còn thấy gì sukha, tốt, trong đó. Ðể sống, chúng ta tùy thuộc nơi ngũ uẩn, mà ngũ uẩn lúc nào cũng không ngừng tan biến. Nếu vào một khoảnh khắc nào mà ngũ uẩn không biến chuyển đổi mới, ắt chúng ta chết. Ðó là điều đáng kinh sợ. Cũng giống như ta đang sống trong một ngôi nhà quá cũ, đã hư nát và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Trường hợp một ngôi nhà cũ thì còn có thể hy vọng nó kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều năm mới sập, nhưng danh uẩn và sắc uẩn bên trong thân ta thì không thể tồn tại, dầu trong một giây. Nó không ngừng tan biến và như thế quả thật khủng khiếp, thật đáng kinh sợ hơn là ở trong nhà cũ. Do đó ta nói rằng nó là dukkha, đau khổ. Ðặc tính của dukkha là gì? Theo Bản Chú Giải, abhiṇha sampaṭipīḷanakara dukkha lakkhaṇaṁ: Luôn luôn, áp bức, không ngừng cưỡng chế, là dấu hiệu của dukkha. Nơi đây luôn luôn áp bức, không ngừng cưỡng chế, hàm ý là trạng thái luôn luôn sanh và diệt của danh uẩn và sắc uẩn. Như vậy, tất cả danh uẩn và sắc uẩn đều được xem là dukkha, những sự vật "không tốt". Tự bản thân mình kinh nghiệm, thấy dấu hiệu của dukkha và nhận thức rằng sự vật là đáng sợ, đau khổ, "không tốt", không đáng tin cậy, là thật sự minh sát đặc tướng bất toại nguyện của sự vật, dukkhānupassanā ñāṇa. Phát Triển Tuệ Minh Sát Thấu Hiểu Ðặc Tướng Khổ Trong khi quán niệm danh pháp và sắc pháp, hành giả nhận thấy hiện tượng sanh diệt liên tục diễn tiến trong di động phồng lên và xẹp xuống ở bụng, trong tác động co vào, duỗi ra của tay, hay dở lên, bước tới và đạp xuống của chân. Hành giả cũng thấy trạng thái khởi sanh và tan biến liên tục diễn tiến mỗi khi niệm đụng, nghe, thấy và nếm. Vị ấy bắt đầu cảm nhận sự áp bức khó chịu trong những tiến trình sanh và diệt liên tục, và thấy cái chết có thể xảy đến bất luận lúc nào, thấy mình luôn luôn bị áp bức khó chịu, như vậy là đáng kinh sợ. Ðó thật sự là tuệ minh sát về đặc tướng khổ của sự vật dukkhānupassanā ñāṇa. Nhằm giúp phát triển tuệ giác nầy, Ðức Thế Tôn hỏi, "Cái gì vô thường là khổ hay lạc, dukkha hay sukha?" Trong đoạn tuyên ngôn, "Sắc, tức thân nầy, không phải là tự ngã" cũng rõ ràng ghi nhận, "Vì sắc không phải tự ngã nên sắc có chiều hướng gây đau khổ." Do vậy ta thấy rõ ràng rằng sắc là khổ, và năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, là khổ, Dukkha." Khi đã chỉ rõ rằng sắc là vô thường và khổ Ðức Thế Tôn tiếp tục khuyến khích năm vị tỳ khưu không nên xem thân nầy là "của ta", là "chính ta", là "tự ngã của ta". "Cái gì là vô thường, khổ và luôn luôn biến chuyển thì có thích nghi hay hợp lý không khi xem đó là 'cái nầy của tôi, cái nầy là tôi, cái nầy là tự ngã của tôi'?" Năm vị tỳ khưu trả lời, "Bạch Ngài, không thích nghi." Chấp Thủ Với Tham ái, "Ðây Là Của Tôi" Trong ba hình thức chấp ngã, chấp rằng "cái nầy của tôi" là chấp thủ với lòng tham ái, chấp "đây là tôi" là chấp thủ với tâm ngã mạn, và chấp "đây là tự ngã của tôi" là chấp thủ với tà kiến. Khi ta cảm nghe thích thú với một vật, dầu vật ấy không phải của mình, thì đó là lòng tham ái. Như đi chợ, ta thấy một vật đẹp, phát tâm thỏa thích dường như đã làm chủ vật ấy. Thấy một cái áo, hay một cái quần vừa ý, ta tưởng tượng như mặc nó vào mình, thấy một đôi giày giống như ý mình muốn, ta cũng tưởng tượng như mang nó vào chân. Chúng ta ưa thích đủ chuyện nếu vừa lòng đẹp dạ dầu là vật vô tri giác hay hữu giác hữu tri trong trí tưởng tượng ta xem như đã là của mình. Vì lẽ ấy Ðức Bổn Sư hỏi rằng chấp thủ sự vật vô thường, khổ, phải luôn luôn biến đổi và thỏa thích trong đó, xem đó là "của ta", như vậy thì có sáng suốt không? Nói cách khác, thích thú trong đau khổ thì có đúng không? Những sắc pháp trong thân ta vừa khởi sanh đã liền tan biến, không ngừng sanh diệt. Nếu ta thấy sự vật đúng như thật sự nó là vậy thì quả thật là kinh hoàng, thật đáng sợ, giống như đang sống trong một ngôi nhà quá cũ kỷ, rách nát, không biết sụp đổ lúc nào. Trong khoảnh khắc hiện tại có thể ta cảm nghe an toàn, nhưng bất cứ lúc nào trong tương lai, tùy thuộc nơi điều kiện và hoàn cảnh, hiểm họa có thể bất ngờ xảy đến. Một khi nhận thức rằng thân nầy rất mỏng manh, không ổn định, không thể tồn tại đến một giây mà không biến đổi, và như vậy là một nguồn đau khổ, thì làm thế nào ta có thể hoan hỷ thỏa thích với nó? Có ai vui lòng chọn một người bạn đời sắp bị tàn phế hoặc sắp chết trong vài giờ hay trong vài ngày không? Không ai thật sự hiểu biết điều gì sắp xảy diễn mà hoan hỷ thỏa thích trong đó. Cùng thế ấy, vị hành giả đã thấy tiến trình nhanh chóng sanh diệt của ngũ uẩn chỉ thấy kinh hoàng đau khổ trong đó. Cảm nhận như vậy người ấy sẽ không có ý muốn chấp thủ thân nầy là chính ta. Do đó Nhóm Năm vị Tỳ Khưu trả lời rằng xem thân nầy là "của ta" thì thật không thích nghi. Chấp Thủ Với Tâm Ngã Mạn, "Ðây là Ta" Thấy sắc pháp và nghĩ rằng, "đây là Ta" là chấp thủ với tâm ngã mạn. Khi có mắt sáng, tai thính, ta thấy và nghe rõ ràng và lấy làm hãnh diện, "Tôi có mắt và tai tốt, tôi xinh đẹp, tôi có giọng nói êm dịu dễ thương, tôi có sức khỏe, tôi mạnh mẽ v.v..." Chấp thủ thân nầy như thế ấy có thích nghi không? Nghĩ rằng những gì của mình sẽ tồn tại lâu dài và thường còn là khái niệm lầm lạc có chiều hướng tăng trưởng tính ngã mạn. Khi những sắc pháp của mắt, tai và hình sắc, những đối tượng của sự thấy, được hiểu biết sai lầm là thường còn thì lòng tự mãn càng tăng cao. Cũng giống như người kia có nhiều vàng bạc và của cải được dấu kín ở một nơi: người ấy rất hãnh diện với tài sản dồi dào phong phú của mình, nhưng nếu biết rằng bao nhiêu vòng vàng đều bị trộm, bao nhiêu tiền của đều mất, thì cái bong bóng ngã mạn ấy sẽ nổ bụp, xẹp lép. Cùng thế ấy, khi chấp thủ những sắc pháp hiển hiện trước mắt, và được nghe nói đến rõ ràng, thì người ta nghĩ rằng nó vẫn tồn tại, và rất hãnh diện với những sắc pháp ấy. Vị hành giả chuyên cần và nhiệt thành quán niệm sẽ hiểu biết rằng những sắc pháp ấy chỉ khởi sanh để rồi tan biến trong chốc lát thì không có lý do gì để hãnh diện với ý nghĩ, "Tôi có mắt sáng", "Tôi xinh đẹp". Nhóm Năm vị Tỳ Khưu được hỏi, Ṅghĩ đến thân nầy 'đây là ta' thì có thích nghi không?" Câu trả lời là, "Bạch Ngài, không". Bằng cách nêu lên câu hỏi để được trả lời, Ðức Thế Tôn muốn rọi sáng cho năm vị tỳ khưu thấy rõ là khi có quan niệm rằng sự vật là thường còn bất hoại thì tính ngã mạn sẽ phát khởi, nếu hiểu biết rằng vạn pháp là vô thường thì ngã mạn không khởi sanh. Chấp Thủ Với Tà Kiến, "Ðây Là Tự Ngã Của Tôi" Chấp thủ niềm tin "Ðây là tự ngã của tôi" là chấp thủ với tà kiến. Tà kiến nầy được chấp chứa dưỡng nuôi khi có niềm tin rằng các sắc pháp bên trong một người tồn tại lâu dài và con người có thể kiểm soát và điều khiển. Khi có sự hiểu biết rằng những sắc pháp ấy không ổn định thường còn mà luôn luôn sanh diệt và đau khổ vì phải luôn luôn biến chuyển, không thể tồn tại, ắt không có lý do vững chắc nào để bám níu vào thân nầy, xem đó là "ta", là một thực thể sống. Khi người hành thiền hiểu biết rằng ta không thể kiểm soát thân nầy, không thể điều khiển, sai bảo, "Hãy làm phát sanh tất cả những gì tốt đẹp, đáng được ưa thích, hãy không để xảy ra những gì xấu xa, không đáng được ưa thích, hãy để cho những sắc pháp tốt thường còn" thì không có gì cho vị ấy bám níu, chấp thủ là "ta". Do đó, để trả lời câu hỏi, "Xem thân nầy là tự ngã thì có thích nghi không?" năm vị tỳ khưu đáp, "Bạch Ngài không." Với câu hỏi nầy Ðức Thế Tôn rọi sáng rằng khi không thông hiểu rằng sắc pháp nầy sanh diệt trong từng khoảnh khắc thì có chấp thủ xem đó là tự ngã của mình. Khi đã biết trạng thái vô thường của nó thì không còn chấp ngã. Theo vậy, "trạng thái biến đổi trong từng khoảnh khắc" cũng phải được xem là một đặc tướng của lý vô ngã. Trong phần đầu bài giảng hôm nay chúng ta đã đề cập đến những đặc tính của vô thường; phần sau giảng qua tất cả ba đặc tướng được đề cập đến trong Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhāṇa Sutta) dưới hình thức vấn đáp. Bài giảng về sắc uẩn đã được trình bày khá đầy đủ. Tiếp theo, chúng ta sẽ đề cập đến những câu vấn đáp liên quan đến các uẩn kia. -ooOoo- from https://theravada.vn/chuong-v-thay-vo-nga/ ĐỨC TĂNG Danh từ “Tăng” là dịch âm từ tiếng Pāḷi “Saṃgha”. Saṃgha: Chư Tăng nghĩa là đoàn thể. Trong câu: Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Thế Tôn. Hoặc danh từ ghép: Bhikkhusaṃgha: Chư Tỳ khưu Tăng..., SAṂGHA: CHƯ TĂNG Chư Tăng có 2 hạng: - Chư Thánh Tăng: Ariyasaṃgha - Chư phàm Tăng: Puthujjanasaṃgha Thế nào gọi là chư Thánh Tăng? Chư Tỳ khưu Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi hành theo pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhân. Do đó, gọi là chư Thánh Tăng (Ariyasaṃgha). Chư Thánh Tăng có 4 đôi, thành 8 bậc tính theo tâm Siêu tam giới. Bậc Thánh Tăng có 4 đôi Thánh Đạo → Thánh Quả tương xứng: Nhập Lưu Thánh Đạo → Nhập Lưu Thánh Quả Nhất Lai Thánh Đạo → Nhất Lai Thánh Quả Bất Lai Thánh Đạo → Bất Lai Thánh Quả Arahán Thánh Đạo → Arahán Thánh Quả 8 bậc Thánh Tăng 4 Thánh Đạo và 4 Thánh Quả: Bậc Nhập Lưu Thánh Đạo Bậc Nhập Lưu Thánh Quả Bốn bậc Thánh Nhân Trong Phật giáo, chư Thánh Tăng tính theo nhân vật có 4 bậc Thánh Nhân: Bậc Thánh Nhập Lưu Được trở thành bậc Thánh Thanh Văn trong Phật giáo, hành giả cần phải có đầy đủ hai điều kiện: - Những tiền kiếp trong quá khứ, hành giả đã từng tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật đầy đủ hoàn toàn. - Kiếp hiện tại, hành giả có duyên lành đến hầu gặp được Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc gặp được bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi tiến hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái, ác pháp... mới trở thành bậc Thánh Thanh Văn, theo tuần tự từ bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai đến bậc Thánh Arahán cao thượng nhất như sau: Hàng thiện trí phàm nhân tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não tà kiến và hoài nghi, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất Lai, là bậc Thánh thứ nhì trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại vi tế, trở thành bậc Thánh Bất Lai, là bậc Thánh thứ ba trong Phật giáo. Bậc Thánh Bất Lai tiếp tục tiến hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não còn lại là tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi; mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót, trở thành bậc Thánh Arahán, là bậc Thánh thứ tư cao thượng trong Phật giáo. Quả báu của bậc Thánh Nhân Theo lẽ tự nhiên tất cả mọi chúng sinh là những phàm nhân còn phiền não, tham ái là còn tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài từ vô thuỷ đến vô chung. Song chư bậc Thánh Nhân đã diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái rồi, thì sự tử sinh luân hồi trong tam giới được hạn chế lại tùy theo mỗi bậc Thánh Nhân.
Bậc Thánh Nhập Lưu là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được 4 tâm tham hợp tà kiến và tâm si hợp hoài nghi, kể từ kiếp hiện tại cho đến kiếp vị lai, 4 tâm tham hợp tà kiến và tâm si hợp hoài nghi vĩnh viễn không còn có trong tâm của bậc Thánh Nhập Lưu nữa. Bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn giải thoát khổ khỏi tà kiếnvà hoài nghi ở kiếp hiện tại và kiếp vị lai và hoàn toàn giải thoát cảnh khổ tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh. * Bậc Thánh Nhập Lưu có 3 hạng - Sattakkhattuparamasotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu có 5 pháp chủ [1] năng lực yếu, còn phải tái sinh làm người hoặc làm chư thiên cõi trời dục giới nhiều nhất 7 kiếp nữa. Đến kiếp thứ 7, thì chắc chắn sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới. - Kolaṃkolasotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu có 5 pháp chủ năng lực trung bình, nên còn phải tái sinh làm người hoặc làm chư thiên từ 2-3-5 kiếp nữa, mới có thể chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới. - Ekabījīsotāpanna: Bậc Thánh Nhập Lưu có 5 pháp chủ năng lực mạnh, nên chỉ còn tái sinh làm người hoặc làm chư thiên 1 kiếp nữa. Ngay trong kiếp ấy, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới. * Bậc Thánh Nhập Lưu tái sinh hơn 7 kiếp [2] Trường hợp ngoại lệ, có 7 vị Thánh Nhập Lưu tái sinh hơn 7 kiếp như sau: Phú hộ Anāthapiṇḍika Bảy vị Thánh Nhập Lưu này có phát nguyện, muốn hưởng sự an lạc trong các cõi trời từ dục giới đến các cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh: Sắc cứu cánh thiên (Akaniṭṭha), mới chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi ngay trong cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh ấy.
Bậc Thánh Nhất Lai là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được tâm sân loại thô. Trong kiếp hiện tại, bậc Thánh Nhất Lai không còn khổ do bởi tâm sân loại thô nữa. Bậc Thánh Nhất Lai chỉ còn tái sinh làm người hoặc làm chư thiên 1 kiếp nữa. Ngay trong kiếp ấy sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới.
Bậc Thánh Bất Lai là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được tâm tham không hợp tà kiến cõi dục giới và tâm sân loại vi tế. Trong kiếp hiện tại, bậc Thánh Bất Lai không còn khổ do bởi tâm tham trong cõi dục giới và tâm sân nữa. Bậc Thánh Bất Lai không còn tái sinh trở lại cõi dục giới, chỉ tái sinh lên cõi sắc giới. Nếu chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới, thì sẽ tái sinh lên tầng trời sắc giới Tịnh Cư Thiên. * Bậc Thánh Bất Lai có 5 hạng - Antarāparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai chưa đến một nửa tuổi thọ của cõi sắc giới phạm thiên ấy, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới. - Upahaccaparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai quá một nửa tuổi thọ của cõi sắc giới phạm thiên ấy, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới. - Asaṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai không cần phải tinh tấn nhiều, cũng chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới. - Saṅkhāraparinibbāyī: Bậc Thánh Bất Lai cần phải tinh tấn nhiều, mới chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi sắc giới ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới. - Uddhaṃsoto akaniṭṭhagāmī: Bậc Thánh Bất Lai khi hết tuổi thọ trong cõi trời sắc giới tầng thấp, tuần tự tái sinh từng trời sắc giới tầng cao, cho đến tầng trời sắc giới Akaniṭṭha tột đỉnh, sẽ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, rồi tịch diệt Niết Bàn, tại cõi trời sắc giới Akaniṭṭha ấy, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới.
Bậc Thánh Arahán là bậc Thánh đã diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn tất cả mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp không còn dư sót. Trong kiếp hiện tại bậc Thánh Arahán hoàn toàn không còn khổ tâm do bởi phiền não, chỉ còn khổ thân do quả của nghiệp mà thôi. Ngay kiếp hiện tại, bậc Thánh Arahán đến khi hết tuổi thọ, sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới. * Bậc Thánh Arahán có nhiều hạng: - Bậc Thánh Arahán Tevijja: Bậc Thánh Arahán có Tam Minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, và Lậu tận minh. - Bậc Thánh Arahán Chaḷabhiñña: Bậc Thánh Arahán có Lục thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông và lậu tận thông. - Bậc Thánh Arahán Catupaṭisambhidappabheda: Bậc Thánh Arahán có Tứ Tuệ Phân Tích: Nghĩa (nhân) phân tích, pháp (quả) phân tích, ngôn ngữ phân tích và ứng đối phân tích. - Bậc Thánh Arahán Ubhatobhāgavimutta: Bậc Thánh Arahán giải thoát bằng 2 pháp hành: Thiền định chứng đắc 4 bậc thiền vô sắc giới và thiền tuệ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả. - Bậc Thánh Arahán Paññāvimutta: Bậc Thánh Arahán giải thoát bằng pháp hành thiền tuệ chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả... Các bậc Thánh Arahán có sự khác biệt nhau về trí tuệ, thần thông trong kiếp hiện tại; song đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn rồi, đều chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới, thì hoàn toàn không có sự khác biệt nhau nữa. 108 BẬC THÁNH Trong bài kinh Ratanasutta, có bài kệ bắt đầu bằng câu: “Ye puggalā aṭṭhasataṃ pasatthā...”. (108 bậc Thánh Nhân mà chư bậc thiện trí đều tán dương ca tụng...). Cách tính 108 bậc Thánh Nhân: 1- Thánh Đạo có 4 bậc, mỗi Thánh Đạo nhân với 2 phận sự [3] thành 8 bậc Thánh Đạo. 2- Thánh Quả có 4 bậc, mỗi bậc Thánh Quả nhân với 4 pháp hành (paṭipadā) [4] , nhân với 2 phận sự(dhura) như sau: Bậc Nhập Lưu Thánh Quả: Có 3 hạng nhân với 4 pháp hành, nhân với 2 phận sự thành 24 bậc Nhập Lưu Thánh Quả. (3 x 4 x 2 = 24) Bậc Nhất Lai Thánh Quả: Có 3 hạng nhân với 4 pháp hành, nhân với 2 phận sự thành 24 bậc Nhất Lai Thánh Quả. (3 x 4 x 2 = 24) Bậc Bất Lai Thánh Quả: Có 5 hạng nhân với 4 cõi Tịnh Cư Thiên bậc thấp rồi cộng với 4 bậc Bất Lai Thánh Quả cõi sắc cứu cánh thiên rồi nhân với 2 phận sự thành 48 bậc Bất Lai Thánh Quả. (5 x 4 + 4) x 2 = 48 Bậc Arahán Thánh Quả: Có 2 hạng nhân với 2 phận sự thành 4 bậc Thánh Arahán Thánh Quả. (2 x 2 = 4) Tổng cộng 4 bậc Thánh Đạo và 4 bậc Thánh Quả theo cách tính trên gồm có: 8 + 24 + 24 + 48 + 4 = 108 bậc Thánh Nhân. THỨ BẬC THÁNH NAM THANH VĂN GIÁC Trong Phật giáo, bậc Thánh nam Thanh Văn Giác có 3 thứ bậc: Bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường (Pakatisāvaka). 1- Bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường như thế nào? Muốn trở thành bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường, vị Bồ Tát Thanh Văn Giác hạng thường ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật [5] trong suốt khoảng thời gian dưới 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát ấy có duyên lành đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác đệ tử của Đức Phật; vị Bồ Tát ấy có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, lắng nghe chánh pháp rồi tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhập Lưu; chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Nhất Lai; chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả trở thành bậc Thánh Bất Lai; chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả trở thành bậc Thánh Arahán. Mỗi bậc Thánh Nhân đã chứng đắc được Thánh Đạo - Thánh Quả nào hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực ba-la-mật của vị ấy đã tạo trong những tiền kiếp. Đức Phật Gotama có vô số bậc Thánh Thanh Văn Giác hạng thường. 2- Bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác như thế nào? Muốn trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Đại Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật trong suốt khoảng thời gian 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ tát ấy chắc chắn có duyên lành đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông... và đặc biệt có đức hạnh nào xuất sắc nhất trong hàng Thanh Văn Giác đệ tử của Đức Phật. Đó gọi là bậc Thánh Đại Thanh Văn Giác. Trong dịp Đức Phật chủ trì tại hội chúng chư Thanh Văn Giác, Đức Phật tuyên dương vị Thánh Đại Thanh Văn Giác ấy về đức hạnh nào xuất sắc nhất trong các hàng Thanh Văn Giác đệ tử, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Đại Thanh Văn Giác ấy, đã phát nguyện và đã được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký. Đức Phật Gotama có 80 vị Thánh Đại Thanh Văn Giác. 3- Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác như thế nào? Muốn trở thành bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, vị Bồ Tát Tối Thượng Thanh Văn Giác ấy cần phải tạo đầy đủ 10 pháp hạnh ba-la-mật trong suốt khoảng thời gian 1 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Vị Bồ Tát ấy chắc chắn có duyên lành đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông... và đặc biệt có đức hạnh, trí tuệ hoặc thần thông xuất sắc nhất trong các hàng Thanh Văn Giác đệ tử. Trong dịp Đức Phật chủ trì cuộc Đại hội Thánh Tăng, Ngài tuyên dương vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác ấy giữa chư Thánh Thanh Giác Văn đệ tử của Đức Phật, đúng theo sở nguyện của vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác ấy, đã phát nguyện và đã được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký. Đức Phật Gotama có 2 vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác là: - Ngài Đại đức Sāriputta có trí tuệ xuất sắc nhất trong hàng Thánh Thanh Văn Giác. - Ngài Đại đức Māhāmoggallāna có thần thông xuất sắc nhất trong hàng Thánh Thanh Văn Giác. THỨ BẬC THÁNH NỮ THANH VĂN GIÁC Trong Phật giáo, bậc Thánh nữ Thanh Văn Giác có ba bậc: Bậc Thánh nữ Thanh Văn Giác hạng thường (Pakatisāvikā). Người cận sự nữ phát nguyện trở thành một trong ba bậc Thánh nữ Thanh Văn Giác này, cách tạo 10 pháp hạnh ba-la-mật và sự phát nguyện cũng giống như những bậc Thánh nam Thanh Văn Giác. Đức Phật Gotama có vô số vị Thánh nữ Thanh Văn Giác hạng thường. Đức Phật Gotama có số vị Thánh nữ Đại Thanh Văn Giác không rõ, nhưng điều chắc chắn có 13 Thánh nữ Arahán, mỗi vị có đức hạnh đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh Văn Giác đệ tử của Đức Phật. Đức Phật Gotama có 2 vị Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn Giác là: - Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Khemā là vị Thánh nữ Arahán Tối Thượng Thanh Văn Giác có trí tuệ đặc biệt xuất sắc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh Văn. - Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā là vị Thánh nữ Arahán Tối Thượng Thanh Văn Giác có thần thông đặc biệt xuất sắc bậc nhất trong hàng Thánh nữ Thanh Văn Giác. Vị Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn Giác bậc nào cũng đều do phát nguyện và đã được Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ thọ ký. Thế nào gọi là chư phàm Tăng? Chư Tăng là bậc Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, quý Ngài đã lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, rồi đang hành theo pháp hành giới-định-tuệ, mà chưa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, vẫn còn là phàm nhân, do đó, gọi là chư phàm Tăng (Puthujjanasaṃgha). Chư Tăng có hai hạng - Paramatthasaṃgha: Chư Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng. Chư Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng như thế nào? Chư Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng, nghĩa là đã trở thành Thánh Nhân bậc cao, thì không bao giờ trở xuống Thánh Nhân bậc thấp, hoặc Thánh Nhân bậc thấp không bao giờ bị thoái hóa trở xuống thành hạng phàm nhân. Thật ra, chỉ có Thánh Nhân bậc thấp tiến hóa, chứng đắc thành Thánh Nhân bậc cao là bậc Arahán mà thôi. Do đó, chư Thánh Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng. Chư Tăng do chế định như thế nào? Chư Tỳ khưu này được thành tựu do chư Tăng làm lễ hành tăng sự nâng đỡ lên thành Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu này vẫn còn là hạng phàm nhân, chưa phải Thánh Nhân. Chư Tỳ khưu này hành giới giống như bậc Thánh Tăng và cũng hành tăng sự chung với bậc Thánh Tăng. Nhóm Tỳ khưu thuộc phàm Tăng này có thể tiến hóa trong pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, tiến hành thiền tuệ để chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhân cao thượng. Và ngược lại, nhóm Tỳ khưu phàm nhân này cũng có thể thoái hóa trong Phật giáo, hoàn tục trở lại đời sống người tại gia cư sĩ. Do đó, chư phàm Tăng do chế định khác với chư Thánh Tăng là bậc Thánh Nhân cao thượng. CÁCH THỨC THỌ TỲ KHƯU Trong Phật giáo, Đức Phật đã chế định ra 8 cách thức thọ Tỳ khưu Upasampadā. * Đối với Tỳ khưu có 5 cách như sau: - Ehi Bhikkhūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách Đức Phật gọi “Ehi Bhikkhu”. - Saraṇagamanūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách thọ phép quy y Tam Bảo. - Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Đức Phật. - Pañhābyākaraṇūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Đức Phật. - Ñatticatutthakammūpasampadā: Thọ Tỳ khưu bằng cách tụng 1 lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn). * Đối với Tỳ khưu ni có 3 cách như sau: - Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā: Thọ Tỳ khưu ni bằng cách thọ nhận 8 trọng pháp. - Dūtenūpasampadā: Thọ Tỳ khưu ni bằng cách nhờ qua người đại diện. - Aṭṭhavācikūpasampadā: Thọ Tỳ khưu ni bằng cách hành tăng sự giữa chư Tăng phái: Tỳ khưu ni Tăng trước, Tỳ khưu Tăng sau, mỗi phái tụng một lần Ñatti và 3 lần Kammavācā, trở thành 8 lần tụng (aṭṭhavācika). Giải Thích: * THỌ TỲ KHƯU (BHIKKHU UPASAMPADĀ): Đức Phật chế định ban hành phép xuất gia trở thành Tỳ khưu có 5 cách: 1- Ehi Bhikkhūpasampadā như thế nào? Người cận sự nam (hoặc đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo) sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, muốn thọ Tỳ khưu; người cận sự nam ấy đến hầu Đức Phật, đảnh lễ xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu. Đức Phật dùng Phật nhãn quán xét đến tiền kiếp người cận sự nam ấy, và thấy rõ rằng: “Người cận sự nam ấy là người có ba-la-mật đầy đủ, nhất là hạnh bố thí ba-la-mật, đã từng bố thí 8 thứ vật dụng của Sa môn (tam y, quả bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc nước), và đã phát nguyện trở thành Ehi Bhikkhu”. Do đó, khi Đức Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ truyền dạy rằng: “Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya”. “Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối; con hãy nên cố gắng tinh tấn thực hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”. Khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt lời, ngay tức thì, người cận sự nam ấy (hoặc đạo sĩ, tu sĩ ngoại đạo) trở thành Tỳ khưu, có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Sa môn, được thành tựu là do quả của phước thiện (thần thông) của mình, vị Tỳ khưu có tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh, như một vị Tỳ khưu 60 hạ. Như vậy gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách gọi: Ehi Bhikkhūpasampadā. Đại Đức Aññasi Koṇḍañña là vị đầu tiên thọ Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu”, cũng là vị Tỳ khưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, và tiếp theo tuần tự các Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, NgàiMahānāma, và Ngài Assaji cũng đều thọ Tỳ khưu bằng cách gọi: “Ehi Bhikkhu”. Chỉ có Đức Phật mới có khả năng cho phép giới tử thọ Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” mà thôi. Ngoài ra, chư bậc Thánh Thanh Văn không có oai lực cho thọ Tỳ khưu theo cách ấy. Đức Phật Gotama cho phép giới tử thọ Tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi Bhikkhu” tất cả gồm có 28.647 vị Tỳ khưu. - Trong Luật Tạng có 1.344 vị như sau: Nhóm Pañcavaggī: 5 vị - Trong Kinh Tạng có 27.303 vị như sau: Bàlamôn Sela và nhóm đệ tử: 301 vị Gồm có tất cả 28.647 vị Tỳ khưu Ehi Bhikkhu. 2- Saraṇagamanūpasampadā như thế nào? Chư bậc Thánh Tăng(mỗi vị một con đường) đi khắp nơi thuyết pháp để tế độ chúng sinh, nếu có người cận sự nam nào có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, có ý nguyện muốn thọ Tỳ khưu, thì Đức Phật cho phép chư bậc Thánh Tăng rằng: “Anujānāmi bhikkhave, imehi tīhi saraṇagamanehi pabbajjaṃ upasampadaṃ” [6] . “Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép thọ Sadi, Tỳ khưu bằng cách cho thọ phép quy y Tam Bảo”. Giới tử thọ Sadi, Tỳ khưu trước tiên phải cạo tóc, râu, mặc y cà sa màu lõi mít, để chừa vai bên phải, ngồi chồm hổm, chắp 2 tay để trên trán xin thọ phép quy y Tam Bảo: “Quy y Phật Bảo, Quy y Pháp Bảo, Quy y Tăng Bảo”, bằng tiếng Pāḷi, đọc theo vị Thầy tế độ như sau: Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Dutiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Tatiyampi, Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi. Khi người giới tử nào thọ phép quy y Tam Bảo xong, người giới tử ấy trở thành Tỳ khưu. Đó gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách thọ phép quy y Tam Bảo. 3- Ovādapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào? Đức Phật giáo huấn Đại Đức Mahākassapa 3 điều rằng: - “Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: trước tiên con nên có tâm hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi đối với vị cao hạ, vị bằng hạ, vị nhỏ hạ. - Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: con nên lắng nghe chánh pháp, nên cung kính mọi chánh pháp ấy, ghi nhớ đầy đủ mọi chánh pháp ấy. - Trong Phật giáo này, này Kassapa, con nên thực hành rằng: con nên tiến hành đề mục niệm thân”. Khi Đại Đức Mahākassapa thọ nhận 3 điều giáo huấn của Đức Phật, chính là sự thành tựu thọ Tỳ khưu của Ngài. Đó gọi là trường hợp thọ Tỳ khưu bằng cách thọ nhận lời giáo huấn của Đức Phật. Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho Ngài Đại Đức Mahākassapa mà thôi. 4- Pañhābyākaraṇūpasampadā như thế nào? Tại chùa Pubbārāma, Đức Phật đang ngự đi kinh hành, khi ấy Sadi tên là Sopāka đến hầu Đức Phật. Đức Phật bèn hỏi Sadi Sopāka câu hỏi liên quan đến đề mục asubha “bất tịnh” rằng: “Uddhamātakasaññā’ti vā Sopāka, rūpasaññā’ti vā ime dhammā nānatthā nānā byañjanā, udahu ekatthā byañjanameva nānā...” “Này Sopāka, niệm tưởng tử thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc pháp, hai pháp này nghĩa khác nhau, danh từ gọi khác nhau? Hay nghĩa giống nhau, danh từ gọi khác nhau?”. Vị Sadi Sopāka mới lên 7 tuổi, bạch với Đức Phật rằng: “Uddhamātakasaññā’ti vā Bhagavā rūpasaññā’ti vā ime dhammā ekatthā byañjanameva nānā....” “Kính bạch Đức Thế Tôn, niệm tưởng tử thi 2-3 ngày sình lên hoặc niệm tưởng sắc pháp, nghĩa giống nhau, chỉ có danh từ gọi khác nhau. Bạch Ngài”. Đức Phật hài lòng câu trả lời của Sadi Sopāka, nên Ngài cho phép Sadi Sopāka trở thành Tỳ khưu. Đó gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách trả lời đúng câu hỏi của Đức Phật. Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho vị Sopāka mà thôi. 5- Ñatticatutthakammūpasampadā như thế nào? Giáo pháp của Đức Phật càng ngày càng phát triển, Tỳ khưu càng ngày càng đông. Cho nên, Đức Phật bỏ cách thọ Tỳ khưu bằng cách thọ phép quy y Tam Bảo rằng: “Yā sā bhikkhave, mayā tīhi saraṇagamanehi upasampadā anuññatā, taṃ ajjatagge paṭikkhipāmi. “Này chư Tỳ khưu, Như Lai đã cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách thọ Tam quy, kể từ nay về sau, Như Lai bỏ cách thọ Tỳ khưu ấy. Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép thọ Tỳ Khưu bằng cách tụng một lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi là ñatticatuttha- kammavācā”. Cách thọ Tỳ khưu này bắt đầu từ Đại đức Rādha và được lưu truyền mãi cho đến ngày nay. Hiện nay, trong các nước Phật giáo theo truyền thống Theravāda, như các nước Tích Lan (Srilankā), nướcMiến Điện (Myanmar), nước Thái Lan, nước Campuchia, nước Lào Phật giáo Nguyên Thuỷ Theravāda Việt Nam... mặc dầu mỗi nước có ngôn ngữ khác nhau, song tất cả đều căn cứ theo Tạng Luật Pāḷi làm cơ bản. Cho nên các nước Phật giáo Theravàda vẫn cố gắng giữ gìn, duy trì y nguyên theo truyền thống thọ Sadi theo cách thọ phép quy y Tam Bảo bằng tiếng Pāḷi, vị Thầy tế độ hướng dẫn thọ phép quy y Tam Bảo, giới tử thọ phép quy y Tam Bảo, cả hai bên đều phải phát âm từng chữ, từng câu, đúng theo văn phạm Pāḷigọi là “Ubhato suddhi”. Và nghi thức thọ Tỳ khưu, chư Tỳ khưu Tăng từ 5 vị trở lên hội họp tại nơi Sīmā. Có 2 hoặc 3 vị Tỳ khưu luật sư tụng ñatticatutthakammavācā: Tụng một lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā(Thành sự ngôn), phải phát âm từng chữ, từng câu đúng theo văn phạm Pāḷi. Đó gọi là thọ Tỳ khưu bằng cách tụng ñatticatutthakammavācā. Ngoài cách thọ Tỳ khưu này ra, còn lại tất cả mọi cách hành Tăng sự (Saṃghakamma) khác, chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại Sīmā cũng tụng ñattikammavācā bằng tiếng Pāḷi, hầu như giống hệt nhau, kể cả tụng những bài kinh Parittapāḷi nữa. Đây là đặc tính của các nước Phật giáo theo truyền thống Theravāda, bởi vì các nước này đều căn cứ y theo Tam Tạng Pāḷi làm nền tảng cơ bản chính. THỌ TỲ KHƯU NI (BHIKKHUNĪ UPASAMPADĀ) Đức Phật chế định ban hành phép thọ Tỳ khưu ni có 3 cách: 1- Garudhammapaṭiggahaṇūpasampadā như thế nào? Thời kỳ Đức Phật ngự tại tịnh xá trong khu rừng lớn thuộc xứ Vesalī, bà Mahāpajā-patigotamī cùng nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya đứng trước cổng Tịnh xá buồn tủi khóc than, vì Đức Phật không cho phép phái nữ thọ Tỳ khưu ni. Đại Đức Ānanda nhìn thấy tình cảnh thật đáng thương như vậy, nên Ngài vào xin với Đức Phật cho phép phái nữ được thọ Tỳ khưu ni. Đức Phật truyền dạy: “Nếu dì mẫu Mahāpajāpatigotamī chấp thuận thọ nhận 8 trọng pháp (garudhamma), thì đó là sự thọ Tỳ khưu ni, của dì mẫu”. Bà Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận, thọ nhận 8 trọng pháp mà Đức Phật đã chế định ban hành. Đó là thọ Tỳ khưu ni bằng cách thọ nhận 8 trọng pháp. Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho bà Mahāpajāpatigotamī mà thôi. Đại Đức Tỳ khưu ni Mahāpajāpatigotamī là vị Tỳ khưu ni đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. 2- Dūtenūpasampadā như thế nào? Trường hợp cô Aḍḍhakāsī, trước khi thọ Tỳ khưu ni, cô là một kỹ nữ nổi tiếng. Nay nữ giới tử Aḍḍhakāsīđã thọ Tỳ khưu ni giữa Tỳ khưu ni Tăng rồi, nữ giới tử Aḍḍhakāsī chuẩn bị lên đường đi đến kinh thành Sāvatthi để hầu Đức Phật và xin thọ phép thọ Tỳ khưu ni giữa Tỳ khưu Tăng. Cô hay tin có một nhóm trai trẻ ăn chơi sẽ đón đường bắt cô. Do đó, cô không dám đi đến hầu Đức Phật, cô nhờ một người đại diện đến bạch với Đức Phật về sự khó khăn, trở ngại của cô trong việc đến xin phép thọ Tỳ khưu ni giữa Tỳ khưu Tăng. Đức Phật biết như vậy, nên đặc biệt cho phép cô rằng: “Anujānāmi bhikkhave, dūtena pi upasampadetuṃ”. “Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép nữ giới tử Aḍḍhakāsī thọ Tỳ khưu ni bằng cách nhờ qua người đại diện”. Đó gọi là thọ Tỳ khưu ni bằng cách nhờ qua người đại diện. Đây là trường hợp đặc biệt chỉ riêng cho nữ giới tử Aḍḍhakāsī mà thôi. 3- Aṭṭhavācīkūpasampadā như thế nào? Trước khi thọ Tỳ khưu ni, giới tử là Sikkhāmānā được tu tập giữ gìn 6 giới hoàn toàn trong sạch và tròn đủ suốt 2 năm (nếu phạm giới nào, phải bắt đầu trở lại). Khi giới tử Sikkhāmānā đủ 2 năm rồi, được phép thọ giới Tỳ khưu ni, gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: Chư Tỳ khưu ni Tăng hội họp tại nơi Sīmā (ranh giới Sīmā), vị Tỳ khưu ni luật sư tụng một lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi là ñatticatutthakammavācā. Giai đoạn thứ hai: Giới tử Tỳ khưu ni ấy đến trình chư Tỳ khưu Tăng hội họp tại nơi Sīmā, vị Tỳ khưu luật sư tụng 1 lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi làñatticatutthakammavācā. Như vậy, sự thọ Tỳ khưu ni phải hành Tăng sự giữa chư Tăng 2 phái: Chư Tỳ khưu ni Tăng và chư Tỳ khưu Tăng, mỗi phái đều tụng ñatticatutthakammavācā, gồm đủ 8 lần, gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā. Cách thọ Tỳ khưu ni này áp dụng chung cho tất cả Tỳ khưu ni. Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, bà Mahāpajāpatigotamī cùng nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya đến xin Đức Phật thọ Tỳ khưu ni. Đặc biệt bà Mahāpajāpatigotamī cung kính chấp thuận thọ nhận 8 trọng pháp của Đức Phật đã ban hành, đó là sự thọ Tỳ khưu ni của bà Mahāpajāpatigotamī. Còn nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya, Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu ni chỉ có chư Tỳ khưu Tăng tụng 1 lần Ñatti (Tuyên ngôn) và tiếp theo tụng 3 lần Kammavācā (Thành sự ngôn), gọi là ñatticatutthakammavācā, bởi vì, khi ấy chưa có Tỳ khưu ni Tăng. Tất cả nhóm 500 cận sự nữ dòng Sakya trở thành Tỳ khưu ni. Kể từ đó về sau, nghi thức thọ Tỳ khưu ni giữa chư Tăng 2 phái: Chư Tỳ khưu ni Tăng và chư Tỳ khưu Tăng, mỗi phái tụng ñatticatutthakammavācā, gồm đủ 8 lần. Do đó, gọi là Aṭṭhavācīkūpasampadā. Tám trọng pháp là: 1) Dầu Tỳ khưu ni có 100 hạ, cũng phải đứng dậy đón tiếp, chắp tay cung kính đảnh lễ Tỳ khưu vừa mới thọ Tỳ khưu trong ngày hôm ấy. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. 2) Tỳ khưu ni không nên an cư nhập hạ nơi chùa không có Tỳ khưu Tăng. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. 3) Tỳ khưu ni luôn luôn quan tâm 2 điều: - Hỏi ngày Uposatha: ngày lễ tụng giới bổn. - Nghe lời giáo huấn của Tỳ khưu Tăng hằng nửa tháng một lần. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. 4) Tỳ khưu ni sau khi an cư nhập hạ xong, phải làm lễ Pavāraṇā: thỉnh mời giữa chư Tăng 2 phái “Tỳ khưu ni Tăng và Tỳ khưu Tăng”. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. 5) Tỳ khưu ni phạm tội nặng (saṃghādisesa), phải bị hành phạt mānatta suốt 15 ngày giữa chư Tăng 2 phái “Tỳ khưu ni Tăng và Tỳ khưu Tăng”. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. 6) Giới tử là Sikkhāmānā [8] đã thực tập 6 giới trong sạch và đầy đủ suốt 2 năm, rồi mới được làm lễ thọ Tỳ khưu ni giữa chư Tăng 2 phái “Tỳ khưu ni Tăng trước và Tỳ khưu Tăng sau”. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. 7) Tỳ khưu ni không được chửi rủa mắng nhiếc Tỳ khưu Tăng trong bất cứ trường hợp nào. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. 8) Sau khi thọ Tỳ khưu ni rồi, cấm dạy Tỳ khưu Tăng, chỉ có Tỳ khưu dạy Tỳ khưu ni mà thôi. Đó là điều mà Tỳ khưu ni phải tôn trọng, cung kính thực hành theo cho đến trọn đời. Tỳ khưu đầu tiên và cuối cùng của Đức Phật Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, Ngài thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ suốt 45 hạ (năm: vassa). Vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch), Đức Phật thuyết pháp bài kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên, tế độ nhóm 5 Tỳ khưu có Ngài Koṇḍanna trưởng nhóm. Sau khi lắng nghe bài kinh này xong, chỉ có Ngài Koṇḍanna là vị đầu tiên chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu (Sotapanna) đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ Sadi-Tỳ khưu. Đức Phật cho phép Ngài Đại đức Koṇḍanna thọ Tỳ khưu theo cách thức gọi “Ehi Bhikkhu!... khi Đức Phật vừa dứt lời, Ngài Đại đức Koṇḍanna trở thành Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Tỳ khưu, có tăng tướng trang nghiêm, ngũ căn thanh tịnh như một vị Tỳ khưu có 60 hạ. Như vậy, Ngài Đại đức Koṇḍanna là vị Tỳ khưu Thánh Tăng đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama; đồng thời Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo đầy đủ trọn vẹn xuất hiện trên thế gian. Từ đó, Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh suốt 45 năm, đến ngày rằm tháng tư (âm lịch), tại khu rừng Kusinārā, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, có vị Đạo sĩ ngoại đạo Subhadda đến hầu Đức Phật, xin phép hỏi những điều thắc mắc mà chưa tìm gặp một vị Đạo sư nào có thể giải đáp làm cho ông thỏa mãn được. Đức Phật biết rõ vị Đạo sĩ Subhadda này có duyên lành với Ngài, chỉ có Ngài mới tế độ Đạo sĩ Subhaddađược, nên Ngài đến khu rừng Kusinārā này để tịch diệt Niết Bàn, chờ tế độ Đạo sĩ Subhadda người đệ tử cuối cùng của Ngài. Vị Đạo sĩ Subhadda bạch hỏi những điều hoài nghi, nhưng Đức Phật không trực tiếp giải đáp câu hỏi, mà Ngài thuyết giảng trong giáo pháp của Ngài, có pháp hành bát chánh đạo hợp đủ 8 chánh, nên mới có bậc Thánh thứ nhất mới là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh thứ nhì là bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh thứ ba là bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh thứ tư là bậc Thánh Arahán cao thượng nhất. Đạo sĩ Subhadda lắng nghe phát sinh đức tin trong sạch trong giáo pháp của Đức Phật, xin Đức Phật cho phép thọ Sadi - Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật. Sau khi trở thành Tỳ khưu không lâu, vị Tỳ khưu Subhadda tiến hành thiền tuệ liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Như vậy, Ngài Đại đức Subhadda là vị Tỳ khưu cũng là bậc Thánh Arahán cuối cùng của Đức Phật Gotama. * Đức Tăng có hai hạng hiện hữu - Thánh Tăng (Ariyasaṃgha) 1- Thánh Tăng là thế nào? Thánh Tăng (Ariyasaṃgha) gồm có nhiều Tỳ khưu Thánh Nhân (Ariyabhikkhu), đã diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái, ác pháp... tùy theo khả năng Thánh Đạo Tuệ của mỗi bậc Thánh Nhân. Tỳ khưu Thánh Nhân có 4 bậc Tỳ khưu Thánh Nhập Lưu mới là bậc Thánh thứ nhất đã diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não: tà kiến, hoài nghi, và các pháp khác liên quan đến tà kiến và hoài nghi. Tỳ khưu Thánh Nhất Lai là bậc Thánh thứ nhì đã diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não sân loại thô và các ác pháp khác liên quan đến tâm sân loại thô. Tỳ khưu Thánh Bất Lai là bậc Thánh thứ ba đã diệt đoạn tuyệt được một loại phiền não sân loại vi tế và các ác pháp khác liên quan đến tâm sân loại vi tế. Tỳ khưu Thánh Arahán là bậc Thánh thứ tư đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não còn lại là tham, si, ngã mạn, phóng tâm, buồn ngủ, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi; tất cả mọi tham ái và tất cả mọi ác pháp không còn dư sót. 2- Phàm Tăng là thế nào? Phàm Tăng (Puthujjanasaṃgha) gồm có nhiều Tỳ khưu phàm nhân (puthujjana) từ 4 - 5 vị trở lên, chưa diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái, ác pháp nào. Phàm nhân có hai hạng: Andhaputhujjana: Phàm nhân tối trí là người không có trí tuệ, không học hỏi nghiên cứu các pháp học như tứ niệm xứ, Tứ Thánh Đế, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v... Kalyāṇaputhujjana: Phàm nhân sáng trí, là người có trí tuệ sáng suốt học hỏi nghiên cứu các pháp học như Tứ Niệm Xứ, Tứ Thánh Đế, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới v.v... Khả năng bậc Thánh Nhân Chư bậc Thánh Nhân đã chứng đắc bậc Thánh bằng nhau, có khả năng biết lẫn nhau, qua cuộc đàm đạo với nhau, hoặc bằng tha tâm thông của bậc Thánh Nhân. Chư Thánh bậc thấp không có khả năng biết chư Thánh bậc cao, mà chỉ có chư Thánh bậc cao có khả năng biết chư Thánh bậc thấp mà thôi. Tất cả mọi hạng phàm nhân hoàn toàn không có khả năng biết đến chư Thánh Nhân; bởi vì, muốn biết chư Thánh Nhân phải biết bằng tuệ nhãn (paññācakkhu), không phải thấy bằng mắt thường (maṃsacakkhu)hoặc trí tuệ của hạng phàm nhân. -ooOoo-
ĐỨC TĂNG SUY ĐỒI Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, trải qua thời gian lâu dài về sau, pháp thành Phật giáo dần bị mai một, bị suy đồi; pháp hành Phật giáo cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi; pháp học Phật giáo cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi. Cho nên, trải qua thời gian lâu dài về sau, Đức Tăng cũng dần dần bị mai một, bị suy đồi. Theo lịch sử Phật giáo Theravāda, kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần thứ tư tại đảo quốc Srilankā, Phật lịch 450 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, chư Tỳ khưu Tăng và chư Tỳ khưu ni Tăng vẫn còn rất đông. Đến khoảng Phật lịch 500 năm, Tỳ khưu ni không còn nữa; còn chư Tỳ khưu Tăng phần đông trên các nước Myanmar, nước Thái Lan, nước Srilankā, nước Lào, nước Campuchia, Phật giáo Nguyên thủy Theravāda tại Việt Nam v.v... Theo thời gian lâu dài về sau, chư Tỳ khưu càng ngày càng kém đức tin nơi Tam Bảo, kém trí tuệ hiểu biết trong Phật giáo; đó là nguyên nhân làm cho pháp thành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi; pháp hành Phật giáo bị mai một, bị suy đồi; và pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi dần dần. Mặc dù Tạng Vi Diệu Pháp và Tạng Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, chỉ còn Tạng Luật, thì Phật giáo vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi. Đến khi Tạng Luật bắt đầu bị mai một, bị suy đồi dần dần, mà chư Tỳ khưu Tăng vẫn còn hành tăng sự (Saṃghakamma) trong những ngày giới uposathakamma hằng tháng, và hành tăng sự lễ thọ Tỳ khưu v.v... thì Đức Tăng vẫn chưa bị mai một, chưa bị suy đồi. Theo quá trình diễn tiến của thời gian, chư Tỳ khưu càng ngày càng giảm dần đức tin nơi Tam Bảo, cho nên có số Tỳ khưu không tôn trọng tất cả mọi điều giới luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu; số Tỳ khưu ấy không nghiêm chỉnh giữ gìn đầy đủ mọi điều giới của Tỳ khưu , bởi coi thường các giới nhẹ (lahuka āpatti). Số Tỳ khưu ây, phạm giới ác khẩu (dubbhāsita āpatti), phạm giới tác ác (dukkaṭa āpatti) rồi dần dần phạm giới pācittiya (pācittiya āpatti), cho đến phạm giới trọng (thullaccaya āpatti). Những giới điều này thuộc về giới nhẹ, bởi vì khi vị Tỳ khưu nào đã phạm giới này, vị Tỳ khưu ấy có thể sám hối với một vị Tỳ khưu khác được. Sau khi đã sám hối xong, vị Tỳ khưu ấy có giới trong sạch trở lại. Theo tuần tự thời gian lâu dài về sau, Tỳ khưu phạm giới nặng (garuka āpatti). Giới nặng có hai giới: Giới Saṃghādisesa (giới Tăng tàn) và giới Pārājika(giới bất cộng trụ). - Nếu vị Tỳ khưu nào đã phạm giới Saṃghādisesa (Saṃghādisesa āpatti), thì vị Tỳ khưu ấy tuy vẫn còn phạm hạnh Tỳ khưu, nhưng vị Tỳ khưu ấy đã phạm giới mà không thể sám hối được. Bởi vì giới Saṃghādisesa này thuộc về giới nặng, nên vị Tỳ khưu ấy phải chịu hành phạt theo luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu. - Nếu vị Tỳ khưu nào phạm giới pārājika (Pārājika āpatti), thì vị Tỳ khưu ấy mất phạm hạnh Tỳ khưu, phải hoàn tục trở lại người cận sự nam tại gia, hoặc có thể trở xuống bậc thấp, thành vị Sadi suốt đời, không bao giờ thọ Tỳ khưu được nữa. Về sau, Tạng Luật bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, chư Tỳ khưu phàm nhân không còn hiểu biết về giới luật, về cách hành tăng sự... Chư Tỳ khưu ấy có những hành vi cử chỉ, nói năng biểu hiện ra nơi thân và khẩu không làm cho người khác phát sinh đức tin. Chư Tỳ khưu ấy không hiểu biết về thiện pháp, không hành thiện pháp, mà hành ác pháp do bởi phiền não, tham ái; tạo nên nghiệp ác do thân, khẩu ý; tự làm khổ mình, làm khổ người khác, làm khổ chúng sinh khác. Trong thời vị lai, chư Tỳ khưu chỉ còn là cái tên gọi “Bhikkhu: Tỳ khưu”, mà không có giới của Tỳ khưu, mặc y nhuộm không đúng màu, theo Đức Phật đã chế định. Trải qua thời gian sau nữa, may y vai trái mặc choàng phần trên thân, y nội mặc che phần dưới thân từ lỗ rún trở xuống, không còn cắt ra thành 5 hoặc 7 điều như luật Đức Phật đã chế định, chỉ may tấm vải dính lại để mặc. Khi chư Tỳ khưu đi khất thực, không ôm bát đàng hoàng, mà chỉ cầm cái bát bằng bàn tay, giống như nhóm ngoại đạo hành khất xin ăn. Tiếp theo thời gian sau nữa, chư Tỳ khưu ấy nghĩ rằng: “Lợi ích gì chúng ta mặc tấm vải y lớn này, ta chỉ cần cắt một mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc cột vào cổ tay, hoặc quấn trên đầu để thuận tiện làm công việc nuôi sống gia đình”. Tuy vậy, Đức Phật dạy Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, trong thời vị lai sẽ có hạng người được gọi là Tỳ khưu “Bhikkhu” còn mảnh y nhỏ quấn cổ, hoặc cột ở cổ tay là người phạm giới, hành ác pháp; nhưng thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có tác ý thiện tâm làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng, dầu trong số Tỳ khưu không có giới ấy. Này Ānanda, sự làm phước thiện bố thí sự cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng trong thời vị lai ấy. Như Lai dạy rằng: “Phước thiện bố thí ấy vẫn có quả báu vô lượng không sao kể xiết được”. Như Lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng: “Thí chủ làm phước thiện bố thí đến cá nhân thọ thí, được quả báu nhiều hơn làm phước bố thí đến chư Tỳ khưu Tăng thọ thí” [9] . Qua đoạn kinh trên Đức Phật dạy những thí chủ làm phước bố thí cúng dường, với tác ý thiện tâm nghĩ đến Tăng Bảo, đó là chư Thánh Tăng phước điền cao thượng của chúng sinh, không đâu sánh được. Bởi vì, chư Thánh Tăng là bậc cao thượng, có giới đức trong sạch thanh tịnh. Thật ra, chỉ có cá nhân Tỳ khưu phạm giới (bhikkhu dussīla) mà thôi. Tiếp theo thời gian về sau nữa, chư Tỳ khưu ấy nghĩ rằng: “Lợi ích gì mảnh y nhỏ quấn vào cổ, hoặc cột vào cổ tay này”. Chư Tỳ khưu ấy cởi vất bỏ mảnh y nhỏ kia, mặc bộ đồ màu trắng “setavatthaṃ” của người tại gia. Khi ấy, hình tướng của Tỳ khưu hoàn toàn bị suy đồi (liṅga antanadhāna). Phật giáo cả nội dung lẫn hình thức hoàn toàn không còn trên cõi người này nữa, do không có Tỳ khưu Thanh Văn giữ gìn duy trì Phật giáo. -ooOoo-
XÁ LỢI PHẬT NIẾT BÀN Đức Phật Gotama có ba loại Niết Bàn: Kilesaparinibbāna: Phiền não Niết Bàn. Parinibbāna: Có nghĩa là “tịch diệt” khi tịch diệt rồi không còn duyên (paccaya) phát sinh gọi là parinibbāna, cũng gọi là Nibbāna. Theo thông thường pháp hữu vi này do 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết và vật thực cấu tạo, cho nên khi diệt rồi còn có duyên (paccaya) phát sinh pháp hữu vi khác liên tục không ngừng, từ đời này sang đời khác. Song Niết Bàn thuộc về pháp vô vi, không do bởi một nhân duyên nào cấu tạo, cho nên khi diệt rồi không còn duyên nào để phát sinh nữa. Đức Bồ Tát Siddhattha đạt đến Phiền não Niết Bàn tại Đại cội Bồ đề trong khu rừng Uruvela (nay gọi là Buddhagayā) vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch) trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, lúc ấy Ngài tròn đúng 35 tuổi. Trải qua 45 năm sau, khi Đức Phật tịch diệt Ngũ uẩn Niết Bàn tại khu rừng Kusinārā vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), lúc ấy Ngài tròn đúng 80 tuổi. Trong thời vị lai, khi Phật giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn trên cõi người này. Khi ấy, sẽ có Xá lợi Phật Niết Bàn. Xá lợi Phật Niết Bàn như thế nào? Xá lợi Đức Phật Niết Bàn nghĩa là tất cả mọi Xá lợi cỡ lớn - nhỏ của Đức Phật Gotama tịch diệt Niết Bàn, không còn dư sót lại trong toàn cõi thế giới chúng sinh. Chư Phật Chánh Đẳng Giác mới có Xá lợi Phật Niết Bàn, còn chư Phật Độc Giác, chư Thánh Thanh Văn Giác có Phiền não Niết Bàn và Ngũ uẩn Niết Bàn, mà không có Xá lợi Phật Niết Bàn. Do năng lực phát nguyện của Đức Phật Gotama, đến khi Phật giáo bị mai một, bị suy đồi, hoàn toàn biến mất trên cõi người này, loài người không còn biết lễ bái cúng dường Xá lợi của Đức Phật nữa. Lúc đó, tất cả Xá lợi của Đức Phật Gotama hiện có trên toàn cõi người, cõi Long vương, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới phạm thiên; Xá lợi của Đức Phật dù lớn, dù nhỏ như hạt cải cũng đều tụ hội lại một chỗ tại Đại cội Bồ đề xưa, nay gọi là Buddhagayā, tại nước Ấn Độ, nơi Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Tất cả Xá lợi Phật kết dính lại thành pho tượng kim thân Đức Phật, tư thế ngồi kiết già có đầy đủ 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ ngồi ngự tại Đại cội Bồ đề, phát ra hào quang sáu màu, có phép thần thông, giống như hồi Đức Phật hóa phép thần thông yamakapaṭihāriya. Thời kỳ ấy, loài người không có đến chiêm bái cúng dường, bởi vì loài người không còn ai hiểu biết đến Đức Phật, mà chỉ có chư thiên, chư phạm thiên trong mười ngàn thế giới tụ hội chiêm bái cúng dường, than vãn rằng: “Ajja satthā parinibbāti, ajja sāsanaṃ osakkati, pacchimadassanaṃ dāni idaṃ amhākaṃ” [10] . “Hôm nay Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn, hôm nay Phật giáo bị tiêu hủy hoàn toàn. Bây giờ, đây là sự chiêm bái cúng dường Xá lợi Đức Phật lần cuối cùng của chúng ta”. Sau đó, hỏa đại (chất lửa) phát xuất từ pho tượng kim thân Đức Phật, thật phi thường chưa từng có, ngọn lửa phát ra từ pho tượng kim thân Đức Phật phóng lên tận cõi trời phạm thiên. Khi viên Xá lợi nhỏ bằng hạt cải còn, thì ngọn lửa vẫn còn. Cho đến khi tất cả mọi Xá lợi của Đức Phật đều bị thiêu hủy, biến mất không còn dư sót lại nữa, thì ngọn lửa mới tắt hẳn. Đó gọi là Xá lợi của Đức Phật Gotama tịch diệt Niết Bàn cuối cùng trên thế gian này, đồng thời Phật giáo của Đức Phật Gotama cũng bị tiêu hủy hoàn toàn biến mất ở cõi người; bởi vì, các hàng Thanh Văn không còn trong cõi người này nữa. Song các hàng Thanh Văn là chư thiên, chư phạm thiên gồm cả bậc Thánh lẫn hạng phàm vẫn còn trong các cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới cho đến mãn kiếp của họ. Chư thiên, phạm thiên vô cùng động tâm (saṃvega), thành kính cúng dường những đóa hoa trời, vật thơm trời, cúng dường Xá lợi của Đức Phật. Còn chư thiên, phạm thiên còn phàm (chưa phải Thánh) phát nguyện rằng: “Anāgate uppajjanakaṃ Buddhaṃ passituṃ labhissāma Bhagavā” [11] . “Kính bạch Đức Thế Tôn, do phước thiện lễ bái cúng dường Xá lợi Phật này, cầu mong tất cả chúng con sẽ được đến hầu Đức Phật xuất hiện trong thời vị lai”. Phát nguyện xong chư thiên, phạm thiên trở về cõi trời của mình. Từ đó, cõi người mất hẳn ánh sáng của chánh pháp, ác pháp càng ngày càng tăng trưởng, ngược lại thiện pháp càng ngày càng suy thoái, nỗi khổ thân, khổ tâm càng ngày càng tăng; tuổi thọ con người càng ngày càng giảm. Khi mọi ác pháp càng tăng trưởng, thì tuổi thọ con người lại càng giảm dần, giảm dần cho đến khi tuổi thọ con người còn khoảng 10 năm. Vào thời kỳ ấy, nạn chém giết lẫn nhau sẽ xảy ra vô cùng tàn khốc, khủng khiếp, không còn biết phân biệt bà con thân bằng quyến thuộc, bạn bè, anh em, thậm chí không còn biết đến cha mẹ con cái nữa. Có một số người hoảng sợ sẽ chạy vào rừng trốn thoát thân. Khi biết nạn chém giết không còn nữa, số người ấy gặp lại sẽ cam kết với nhau sẽ không giết hại lẫn nhau nữa. Con người bắt đầu biết giữ giới, thiện pháp bắt đầu tăng trưởng, còn ác pháp bắt đầu suy thoái. Nhờ vậy, tuổi thọ con người càng ngày càng tăng. Khi mọi thiện pháp càng tăng trưởng, thì tuổi thọ con người lại tăng dần, tăng dần cho đến tột đỉnh a-tăng-kỳ năm [12] . Thời kỳ đó, con người sẽ có tuổi thọ sống lâu, nên sinh tâm dể duôi, ác pháp lại bắt đầu phát sinh... Do nguyên nhân ấy làm cho tuổi thọ con người giảm dần, giảm dần cho đến thời kỳ con người có tuổi thọ khoảng 80.000 năm. Trong thời kỳ ấy, Đức Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian, cùng trong kiếp trái đất mà chúng ta đang sống. Bởi vì, kiếp trái đất Bhaddakappa có nhiều diễm phúc hơn các kiếp trái đất khác, vì có được 5 Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện cùng trên trái đất này tuần tự như sau: Trong thời quá khứ đã có 3 Đức Phật là: Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana và Đức Phật Kassapa. Trong thời hiện tại có Đức Phật Gotama của chúng ta. Trong thời vị lai, còn có Đức Phật Metteyya sẽ xuất hiện trên thế gian cùng trong kiếp trái đất này. * (Chương I - Ba Ngôi Cao Cả đã trình bày xong) * -ooOoo- [1] 5 pháp chủ: Tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ. [2] Bộ Chú giải Samyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Ekābhiññasutta. [3] 2 phận sự (dhura): 1- Saddhadhura: phận sự của đức tin; 2- Paññādhura: phận sự của trí tuệ. [4] 4 pháp hành: 1- Hành dễ, chứng đắc mau. 2- Hành dễ, chứng đắc chậm. 3- Hành khó, chứng đắc mau. 4- Hành khó, chứng đắc chậm. [5] 10 pháp hạnh ba-la-mật: Bố thí, giữ giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí nguyện, tâm từ, tâm xả. [6] Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Pabbajjūpasampadākathā. [7] Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Paṇāmitakathā. [8] Sikkhāmānā thực tập 6 giới: ngũ giới + giới không ăn phi thời (quá giờ ngọ: 12 giờ) trong sạch suốt 2 năm. Trong thời gian thực tập, nếu phạm một giới nào vị Sikkhāmānā phải bắt đầu lại từ đầu. [9] M. Uparipaṇṇāsa kinh Dakkhiṇāvibhaṅgasutta. [10] Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta… [11] Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta… [12] A-tăng-kỳ năm tính theo số lượng, số 1 đứng đầu theo sau 140 số không (0); viết tắt là 10140. <span" style="font-style: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; orphans: auto; text-align: start; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: auto; word-spacing: 0px; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration: none; caret-color: rgb(0, 0, 0); color: rgb(0, 0, 0);"> -ooOoo- </span"> from https://theravada.vn/chuong-ii-duc-tang-sa%e1%b9%83gha/ CHƯƠNG I (e) PHẬT GIÁO Phật giáo là lời giáo huấn của Đức Phật, từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) tại Đại cội Bồ đề, suốt 45 năm cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, cũng vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) tại khu rừng Kusinārā. Phật giáo có 3 phần chính: Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana) Pháp học Phật giáo đúng đắn làm nền tảng căn bản cho pháp hành Phật giáo được phát triển đúng. Khipháp hành Phật giáo phát triển đúng đắn dẫn đến kết quả là pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Pháp học Phật giáo là gì? Trong chú giải Chi Bộ Kinh định nghĩa: Pariyatti ti tepiṭakam Buddhavacanaṃ sāṭṭhakathā Pāḷi [1] Pháp học Phật giáo là Phật ngôn Tam Tạng cùng Chú giải Pāḷi. Tiếng Pāḷi là ngôn ngữ chung của Chư Phật trong quá khứ, Đức Phật hiện tại và Chư Phật vị lai. Pháp học Phật giáo gồm những lời giáo huấn, những điều răn dạy của Đức Phật trong suốt 45 năm kể từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, được ghi chép trong Tam Tạng, mà trong đó gồm có lời của các hàng đệ tử, chư thiên, phạm thiên,... được Đức Phật nhắc lại hoặc xác nhận cũng xem như Phật ngôn, và Chú giải là lời giải thích của Đức Phật rải rác trong Tam Tạng gọi là Pakiṇṇa-kadesanā thuyết giảng giải thích những điều thắc mắc của các hàng đệ tử, cùng với lời giải thích của chư Thánh Arahán, gọi chung là Chú giải. Pháp học là nền tảng căn bản của Phật giáo, nếu không có pháp học Phật giáo, thì chắc chắn sẽ không có pháp hành Phật giáo và pháp thành Phật giáo, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới. Nếu có pháp học Phật giáo đúng, thì có pháp hành Phật giáo đúng, nếu có pháp hành Phật giáo đúng, thì có pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới. 1- PHÁP VỊ GIẢI THOÁT (VIMUTTIRASA) Phật giáo có một vị duy nhất là vị giải thoát khổ như Đức Phật đã dạy: “Seyathāpi Pahārāda, mahāsamuddo ekaraso loṇaraso. Evamevaṃ kho Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso; Ayampi Pahārāda, ayaṃ dhammavinayo ekaraso vimuttiraso...” [2] Này Pahārāda, như đại dương chỉ có một vị duy nhất “vị mặn”. Cũng như vậy, này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất “vị giải thoát khổ”. Này Pahārāda, pháp và luật này chỉ có một vị duy nhất “vị giải thoát khổ”. Phân loại toàn giáo pháp của Đức Phật 2- PHẬT NGÔN (BUDDHAVACANA) Toàn giáo pháp của Đức Phật, Phật ngôn chia ra làm 3 thời kỳ: Phật ngôn đầu tiên (Paṭhama buddhavacana). Phật ngôn đầu tiên là gì? Đức Bồ Tát Siddhattha chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, tại Đại cội Bồ đề vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), Ngài đang an hưởng vị giải thoát suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày. Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết 2 bài kệ ở trong tâm rằng: “Anekajātisamsāram Gahakāraka! dittho’si 153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân” 154- Này tham ái, người thợ xây nhà “thân”! Hai bài kệ này mà Đức Phật tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn thời kỳ đầu tiên của Đức Phật. Phật ngôn cuối cùng là gì? Đức Phật du hành thuyết pháp tế độ cho chúng sinh có duyên lành nên tế độ, khắp mọi nơi, từ cõi người đến cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới (không có cõi trời vô sắc giới, bởi vì phạm thiên cõi này không có sắc uẩn (không có lỗ tai để lắng nghe Chánh Pháp) suốt 45 năm ròng rã ngày đêm. Đến ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức Phật ngự đến khu rừng Kusinārā để tịch diệt Niết Bàn. Trước giờ tịch diệt Niết Bàn, vào canh chót, Đức Phật nhắc nhở khuyên dạy các hàng đệ tử đứng đầu là Tỳ khưu rằng: “Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo Này chư Tỳ khưu, bây giờ Như Lai nhắc nhở khuyên dạy các con lần cuối cùng. Tất cả các pháp hữu vi có trạng thái diệt là thường, các con hãy nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ. Đó là Phật ngôn cuối cùng của Đức Phật. Thật vậy, Đức Phật chấm dứt câu chót: “Appamādena sampādetha” Từ đó, không còn dạy một lời nào nữa. Đức Phật nhập các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắc và cuối cùng tịch diệt Niết Bàn, gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn (khandhaparinibbāna) diệt ngũ uẩn rồi, không có ngũ uẩn nào khác tái sinh nữa, hoàn toàn giải thoát khổ sinh là giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới. Phật ngôn thời kỳ giữa là gì? Ngoại trừ hai câu kệ tự thuyết đầu tiên và Phật ngôn thời kỳ cuối cùng ra, còn lại tất cả những lời giáo huấn, điều răn dạy của Đức Phật trong suốt 45 năm. Đó là Phật ngôn thời kỳ giữa của Đức Phật. 3- PHÁP VÀ LUẬT (DHAMMA VINAYA) Toàn giáo pháp của Đức Phật phân ra làm hai loại: - Pháp (Dhamma) gồm có Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp. Trong kinh Đại Niết Bàn (Mahāparinibbānasutta), trước khi tịch diệt Niết Bàn. Đức Phật dạy Đại đức Ānanda rằng: “Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññato, so vo mamaccayena satthā” 2 . - Này Ānanda, Pháp mà Như Lai đã thuyết, Luật mà Như Lai đã chế định, sau khi Như Lai đã tịch diệt Niết Bàn rồi, Pháp và Luật ấy là Tôn sư của các con. Theo Chú giải kinh Đại Niết Bàn, giải thích: Danh từ Dhamma: Pháp có nghĩa là Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp. Danh từ Vinaya: Luật có nghĩa là Tạng Luật. Tiṇi piṭakāni pañca nikāyā navaṅgāni caturasītidhammakkhandhasahassāni. Tất cả Pháp và Luật phân chia thành Tam Tạng, Ngũ bộ, Cửu chi, 84.000 Pháp môn. - Tạng Luật: Gồm có 21.000 Pháp môn. Đức Phật còn giảng giải rằng: “Iti imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbāyāmi. Ahañca kho dāni ekova ovadāmi anusāsāmi, mayi parinibbute imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti amusāsissanti” [7] . Như vậy, 84.000 Pháp môn này tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn. Thật vậy, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con. Sau khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, thì có 84.000 Pháp môn ấy là “Tôn sư” sẽ giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con. Trên đây là đoạn Chú giải mà Đức Phật đã giải thích, giảng dạy cho các hàng đệ tử nên hiểu biết rõ rằng: Sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi, không phải không còn vị Tôn sư, mà khi ấy, 84.000 pháp môn chính là Tôn sư sẽ giáo huấn, sẽ theo dạy dỗ các hàng đệ tử. 4- TAM TẠNG (TIPIṬAKA) Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia theo tạng thì có 3 tạng: Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi).
Tạng Luật gồm những lời răn dạy của Đức Phật. Đức Phật đã ban hành những điều giới Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, những phép hành tăng sự, những điều cho phép và những điều không cho phép, những việc nên làm và những việc không nên làm v.v... Tạng Luật có 5 bộ * Bộ Pārājikapāḷi gồm có những điều giới: 4 điều giới Pārājika * Bộ Pācittiyapāḷi gồm có những điều giới: 92 điều giới Suddha pācittiya * Bộ Mahāvagga (Tạng Luật) Bộ luật Mahāvagga này, Đức Phật thuyết giảng về chuyện chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, chuyện thuyết pháp Chuyển Pháp Luân đầu tiên tế độ nhóm 5 Tỳ khưu, Đức Phật ban hành phép xuất gia thọ Sadi, Tỳ khưu v.v... * Bộ Cūḷavagga Bộ luật Cūḷavagga này, Đức Phật ban hành nhiều phép hành tăng sự đến chư Tỳ khưu. Trong bộ này, lần đầu tiên Đức Phật cho phép bà Mahāpajāpatigotamī xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong giáo pháp của Đức Phật, cùng với 500 cận sự nữ dòng Sakya cùng xuất gia thọ Tỳ khưu ni v.v... * Bộ Parivāra Bộ luật Parivāra này, Đức Phật ban hành nhiều điều liên quan đến giới và nhiều vấn đề khác... Đó là 5 bộ trong Tạng Luật mà Đức Phật là Bậc duy nhất chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni; còn các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử không thể chế định ra điều giới và các phép hành tăng sự ... Tạng Luật có 3 đặc tính đặc biệt: - Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh (aṇādesanā). * Đức Phật thuyết giảng bằng pháp lệnh như thế nào? Đức Phật đã chế định ra điều giới, các phép hành tăng sự, điều cho phép và không cho phép, việc nên làm và không nên làm... đến chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni. Chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni phải nghiêm chỉnh hành theo những điều mà Đức Phật đã chế định, không được thêm vào hoặc bớt ra. Nếu vị nào cố ý sai phạm, vị ấy phải chịu tội nặng hay nhẹ, tùy theo mỗi điều giới, không ngoại trừ một ai. Đức Phật là Bậc độc nhất chế định và ban hành Tạng Luật, còn các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử không có quyền chế định một điều nào cả. * Đức Phật giáo huấn tùy theo lỗi như thế nào ? Khi nào Tỳ khưu hoặc Tỳ khưu ni bị phạm lỗi lần đầu tiên, bị người đời hoặc chư thiên chê trách, làm tổn thương đến uy tín của chư Tăng. Khi ấy, Đức Phật mới chế định điều giới, ban hành đến chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, để đem lại 10 điều lợi ích như sau: 1- Saṃghasuṭṭhutāya: Để đem lại sự tốt lành cho Tỳ khưu Tăng, Tỳ khưu ni Tăng. 2- Saṃghaphāsutāya: Để đem lại sự an lành cho Tỳ khưu Tăng, Tỳ khưu ni Tăng. 3- Dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya: Để khiển trách Tỳ khưu, Tỳ khưu ni phá giới, khó dạy không biết hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi. 4- Pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuviharāya: Để đem lại sự an lành đến những Tỳ khưu, Tỳ khưu ni biết kính yêu giới. 5- Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya: Để ngăn ngừa những tai họa xảy ra trong kiếp hiện tại. 6- Samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya: Để diệt trừ những tai họa 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) trong kiếp vị lai. 7- Appasannānaṃ pasādāya: Để làm cho phát sinh đức tin đến những người chưa có đức tin nơi Tam Bảo. 8- Pasannānaṃ bhiyyo bhavāya: Để làm tăng trưởng thêm đức tin cho những người đã có đức tin nơi Tam Bảo. 9- Saddhammaṭṭhitiyā: Để làm cho Chánh Pháp “pháp học, pháp hành, pháp thành” được trường tồn lâu dài. 10- Vinayānuggahāya: Để giữ gìn hộ trì giới luật được nghiêm minh. Đức Phật chế định giới điều, sau khi có Tỳ khưu hoặc Tỳ khưu ni phạm lỗi đầu tiên. Cho nên, những Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nào phạm lỗi đầu tiên; Tỳ khưu, Tỳ khưu ni ấy không phạm giới ấy. Đức Phật chế định điều giới nặng hoặc nhẹ, tùy theo lỗi nặng hoặc nhẹ. Sau khi Đức Phật chế định giới điều nào rồi, ban hành đến Tỳ khưu, Tỳ khưu ni; nếu Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nào cố ý phạm giới ấy, thì Tỳ khưu, Tỳ khưu ni ấy gọi là đã phạm giới ấy. * Đức Phật răn dạy Tỳ khưu, Tỳ khưu ni giữ gìn thu thúc thân và khẩu như thế nào? Đức Phật ban hành giới điều đến Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cốt để răn dạy Tỳ khưu, Tỳ khưu ni biết giữ gìn thu thúc thân và khẩu, tránh xa mọi hành ác do thân và khẩu. Tỳ khưu, Tỳ khưu ni giữ gìn điều giới được trong sạch, có thể diệt được phiền não loại thô (vitikkamakilesa), để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ được phát triển. Đó là những đặc tính đặc biệt của Tạng Luật. Tỳ khưu giới Đức Phật chế định, ban hành điều giới của Tỳ khưu trong Bhikkhupātimokkhasīla có 227 điều giới như sau: 1) Điều giới Pārājika có 4 điều giới bất cộng trụ. 2) Điều giới Saṃghādisesa có 13 điều giới. 3) Điều giới Aniyata có 2 điều giới bất định. 4) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới ưng xả đối trị, trước phải xả bỏ vật bị phạm giới, sau mới xin sám hối (pācittiya āpatti). 5) Điều giới Suddha pācittiya có 92 điều giới ưng đối trị. 6) Điều giới Pāṭidesamāya có 4 điều giới sám hối riêng rẽ. 7) Điều giới Sekhiya có 75 điều học tập. 8) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp giảng hòa. Trong giới bổn bhikkhupātimokkhasīla gồm có 227 điều giới, nếu tính theo Tạng Luật, thì điều giới của Tỳ khưu tổng cộng 91.805.036.000 điều giới. Như trong bộ Visuddhimagga dạy: “Navakoṭisahassāni, Đức Phật đã chế định những điều giới trong Tạng Luật bằng cách hiểu rộng gồm có 91.805.036.000 điều giới, để giữ gìn thu thúc thân và khẩu tránh xa mọi hành ác. Tỳ khưu ni giới Đức Phật chế định ban hành điều giới của Tỳ khưu ni Bhikkhunipātimokkhasīla gồm có 311 điều giới như sau: 1) Điều giới Pārājika có 8 điều giới. 2) Điều giới Saṃghādisesa có 17 điều giới. 3) Điều giới Nissaggiya pācittiya có 30 điều giới. 4) Điều giới Suddha pācittiya có 166 điều giới. 5) Điều giới Pāṭidesamāya có 8 điều giới. 6) Điều giới Sekhiya có 75 điều giới. 7) Điều Adhikaraṇasamatha có 7 pháp.
Phạm giới āpatti Tỳ khưu, Tỳ khưu ni phạm giới āpatti có 7 loại 1) Pārājika āpatti: Phạm giới bất cộng trụ, mất phạm hạnh Tỳ khưu, Tỳ khưu ni. 2) Saṃghādisesa āpatti: Phạm giới rồi phải xin chư Tăng hình phạt. 3) Thullaccaya āpatti: Phạm giới nặng kém thua hai giới trên. 4) Pācittiya āpatti: Phạm giới ưng đối trị. 5) Pāṭidesanīya āpatti: Phạm giới xin sám hối riêng rẽ. 6) Dukkaṭa āpatti: Phạm giới tác ác. 7) Dubbhāsita āpatti: Phạm giới ác khẩu. Phạm giới āpatti có 7 loại chia làm 2 loại chính 1- Phạm giới āpatti nặng có 2 loại Pārājika āpatti: Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nào phạm một trong những điều giới này; Tỳ khưu, Tỳ khưu ni ấy bị mất phạm hạnh Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, họ phải hoàn tục trở lại người tại gia (hoặc xuống trở thành Sadi). Saṃghādisesa āpatti: Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nào phạm một trong những điều giới này; Tỳ khưu, Tỳ khưu ni ấy tuy còn phạm hạnh Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, nhưng vị ấy phải biết xin chịu hành phạt theo luật của Đức Phật ban hành, hành Parivāsakamma, hành Mānattakamma và hành Abbhānakamma, để cho giới của mình được trở lại trong sạch. 2- Phạm giới āpatti nhẹ có 5 loại Thullaccaya āpatti, Pācittiya āpatti, Pāṭidesanīya āpatti, Dukkaṭa āpatti, Dubbhāsita āpatti. Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nào phạm một trong 5 loại này, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni ấy có thể xin sám hối với một vị Tỳ khưu khác, để cho giới của mình được trở lại trong sạch. Quả báu của sự giữ gìn giới Trong Tạng Luật bộ Parivāra, Đức Phật thuyết dạy quả báu của sự giữ gìn giới trong sạch đem lại sự lợi ích theo nhân quả tuần tự như sau: 1) Giữ gìn giới trong sạch đem lại sự lợi ích là có thu thúc lục căn thanh tịnh. 2) Có thu thúc, đem lại sự lợi ích là tâm không nóng nảy, tâm mát mẻ. 3) Tâm không nóng nảy, đem lại sự lợi ích là có tâm thỏa thích an vui. 4) Tâm thỏa thích an vui, đem lại sự lợi ích là có tâm hoan hỷ. 5) Tâm hoan hỷ, đem lại sự lợi ích là tâm vắng lặng thanh tịnh. 6) Tâm vắng lặng thanh tịnh, đem lại sự lợi ích là tâm an lạc. 7) Tâm an lạc, đem lại sự lợi ích cho thiền định. 8) Tâm thiền định, đem lại sự lợi ích có tri kiến thấy đúng theo thực tánh của các pháp. 9) Tri kiến thấy đúng theo thực tánh của các pháp, đem lại sự lợi ích cho tri kiến thiền tuệ, nhàm chán ngũ uẩn. 10) Tri kiến thiền tuệ nhàm chán ngũ uẩn, đem lại sự lợi ích diệt đoạn tuyệt được tham ái bằng Thánh Đạo Tuệ. 11) Diệt đoạn tuyệt được tham ái, đem lại sự lợi ích, giải thoát khổ bằng Thánh Quả Tuệ. 12) Giải thoát khổ bằng Thánh Quả Tuệ rồi, đem lại sự lợi ích cho trí tuệ quán xét biết rõ rằng giải thoát khổ rồi. 13) Trí tuệ quán xét biết rõ giải thoát khổ rồi, đem lại sự lợi ích chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ không còn chấp thủ. Hành giả giữ gìn giới được trong sạch và đầy đủ, làm nền tảng đem lại nhiều sự lợi ích cho mọi thiện pháp, cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ, cho đến lợi ích cao thượng là chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới. Quả báu của việc học Tạng Luật Trong Tạng Luật bộ Pavivāra, Ngài Đại đức Upāli bạch hỏi Đức Thế Tôn về quả báu của việc học Tạng Luật. Đức Phật dạy rằng: Này Upāli, Tỳ khưu học Tạng Luật có được 5 quả báu là: 1) Chính mình biết giữ gìn giới luật được trong sạch. Đó là 5 quả báu của việc học rành rẽ Tạng Luật.
Tạng Kinh là tạng gồm có nhiều bài kinh, bài kệ do Đức Phật thuyết giảng, cũng có một số bài kinh, bài kệ do chư Thánh Arahán, chư thiên, chư phạm thiên, Đức vua, Samôn, Bàlamôn. Những bài kinh, bài kệ ấy được Đức Phật nhắc lại hoặc xác nhận thì xem như lời thiện ngôn. Tạng Kinh gồm có 5 bộ lớn Trường Bộ Kinh: Gồm có những bài kinh dài. Tạng Kinh có 3 đặc tính đặc biệt - Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp (vohāradesanā). * Đức Phật thuyết pháp dùng ngôn ngữ thích hợp như thế nào? Đức Phật thuyết pháp bằng cách dùng ngôn ngữ thích hợp đối với mỗi chúng sinh. Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh gồm có nhiều hạng khác nhau như Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, Vua chúa, Bàlamôn, dân chúng, cho đến chư thiên, chư phạm thiên v.v... Mỗi khi chúng sinh lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, họ đều hiểu rõ ràng các chánh pháp bởi do ngôn ngữ thích hợp theo trình độ riêng của mỗi chúng sinh. Do đó, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, có số chứng đắc thành bậc Thánh Nhất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh Bất Lai, có số chứng đắc thành bậc Thánh Arahán tùy theo khả năng pháp hạnh ba-la-mật của mỗi chúng sinh đã tạo. Cũng có số tạo duyên lành, bồi bổ pháp hạnh ba-la-mật để chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả trong thời vị lai kiếp này, hoặc kiếp sau. * Đức Phật giáo huấn tùy theo căn duyên chúng sinh như thế nào? Đức Phật có hai trí tuệ đặc biệt là: - Indriyaparopariyattañāṇa: Trí tuệ biết rõ 5 pháp chủ già dặn hoặc non nớt của mỗi chúng sinh. Do đó, Đức Phật biết rõ được chúng sinh có duyên lành chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, hoặc không chứng đắc. Cho nên, Đức Phật thuyết pháp tế độ phù hợp với căn cơ, duyên lành của chúng sinh ấy. Khi chúng sinh ấy lắng nghe chánh pháp của Đức Phật dễ dàng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái. Ví như một vị thầy thuốc có tài đức, chẩn bệnh chính xác, biết rõ căn bệnh của bệnh nhân, liền cho thuốc tốt, nên bệnh nhân mau lành bệnh. * Đức Phật thuyết dạy chúng sinh diệt tà kiến như thế nào? Đức Phật biết rõ mỗi chúng sinh có tà kiến khác nhau (có 62 loại tà kiến), Đức Phật thuyết dạy chúng sinh ấy phát sinh chánh kiến, nên diệt được tà kiến theo chấp ngã, các loại tà kiến khác cũng bị diệt cùng một lúc, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn một cách dễ dàng. Đó là 3 đặc tính đặc biệt của Tạng Kinh.
TạngVi Diệu Pháp gồm những Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) cao siêu vi diệu, là những pháp có thực tánh như: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp không phải thiện, không phải bất thiện... Những pháp ấy là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới... không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, đàn bà, chúng sinh.... Tạng Vi Diệu Pháp được Đức Phật thuyết tại cung trời Tam Thập Tam Thiên vào mùa hạ thứ 7 của Đức Phật, để tế độ Phật mẫu, nay kiếp hiện tại là thiên nam Santussita ở cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên. Vị thiên nam Santussitahiện xuống cõi trời Tam Thập Tam Thiên lắng nghe Đức Phật thuyết Tạng Vi Diệu Pháp này suốt 3 tháng hạ [9] . Vị thiên nam Santussita chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu cùng với 80 tỷ chư thiên, chư phạm thiên cũng chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả cao thấp tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi vị. Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 7 bộ: 1- Bộ Dhammassaṅganīpāḷi: Bộ Pháp Tụ Hội gồm tất cả các chân nghĩa pháp thành nhóm Mātikā pháp đầu đề, có tất cả 132 mātikā chia làm hai loại: Tika mātikā: Pháp đầu đề có ba chi pháp gồm có 32 mātikā. 2- Bộ Vibhaṅgapāḷi: Bộ Pháp Phân Tích gồm các pháp phân tích thành 18 loại, uẩn (khandha), xứ (āyatana), giới (dhātu) v.v... 3- Bộ Dhātukathāpāḷi: Bộ Phân Loai gồm các pháp phân loại thành ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới, Tứ Đế (sacca). 4- Bộ Pugalapaññattipāḷi: Bộ Nhân Chế Định phân biệt các hạng người khác nhau. 5- Bộ Kathāvatthupāḷi: Bộ Luận Đề đặt vấn đề phá tan mọi tà thuyết, trở lại Chánh Pháp. 6- Bộ Yamakapāḷi: Bộ Song Đối gồm các câu hỏi, câu trả lời đi đôi với nhau từng cặp. 7- Bộ Paṭṭhānapāḷi: Bộ Duyên Hệ giải về 24 duyên có quan hệ với nhau. Bộ Duyên Hệ này là bộ lớn và rộng nhất, sâu sắc và vi diệu nhất trong Phật giáo. Tạng Vi Diệu Pháp có 3 đặc tính đặc biệt - Đức Phật thuyết giảng về Chân nghĩa pháp (Paramatthadesanā). * Đức Phật thuyết giảng về chân nghĩa pháp như thế nào? Đức Phật tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị thông suốt tất cả các chân nghĩa pháp(paramatthadhamma) đó là tâm (citta), tâm sở (cetasika), sắc pháp (rūpa) và Niết Bàn (Nibbāna). Đức Phật Chánh Đẳng Giác đặc biệt có đầy đủ 5 pháp Ñeyyadhamma, nên Ngài có khả năng chế định ra ngôn ngữ chân nghĩa pháp, để thuyết dạy Tạng Vi Diệu Pháp này. Ngoài ra, không có một vị nào có khả năng thuyết giảng chân nghĩa pháp này, bởi vì họ không phải là Đức Phật Chánh Đẳng Giác. * Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh tùy theo căn duyên để phá chấp ngã như thế nào? Đức Phật biết rõ tà kiến theo chấp ngã của chúng sinh khác nhau. - Số chúng sinh có tà kiến theo chấp danh pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp sắc pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết pháp ngũ uẩn (khandha) là vô ngã. Bởi vì, trong ngũ uẩn có 4 danh uẩn: thọ, tưởng, hành, thức thuộc về danh pháp là vô ngã, còn một sắc uẩn thuộc về sắc pháp cũng là vô ngã. - Số chúng sinh có tà kiến theo chấp sắc pháp cho là ta (ngã) nặng hơn là chấp danh pháp cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh này, Đức Phật thuyết pháp 12 xứ (āyatana) là vô ngã. Bởi vì, trong 12 xứ, có 10 xứ: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về sắc pháp là vô ngã. Còn lại ý xứ thuộc về danh pháp và một phần pháp xứ thuộc về danh pháp và sắc pháp là vô ngã. - Số chúng sinh có tà kiến theo chấp danh pháp và sắc pháp tương đương cho là ta (ngã). Để tế độ nhóm chúng sinh ấy, Đức Phật thuyết pháp 18 giới (dhātu) là vô ngã. Bởi vì, trong 18 giới, có 10 giới: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, và sắc, thanh, hương, vị, xúc thuộc về sắc pháp là vô ngã. Còn lại 7 giới khác: nhãn thức giới, nhĩ thức giới, tỷ thức giới, thiệt thức giới, thân thức giới, ý giới, ý thức giới thuộc về danh pháp là vôngã, riêng pháp xứ thuộc danh pháp và sắc pháp là vô ngã v.v... Đức Phật thuyết pháp giáo huấn chúng sinh thấy rõ, biết rõ tất cả các pháp là vô ngã, không phải ta, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng sinh ..., để phá chấp ngã. * Đức Phật thuyết giảng phân tích danh pháp, sắc pháp như thế nào? Đức Phật thuyết giảng phân tích cho chúng sinh thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp, mỗi danh pháp, mỗi sắc pháp có thực tánh pháp, có trạng thái riêng, có 3 trạng thái chung: trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, để diệt tâm tà kiến thấy sai chấp lầm từ danh pháp, từ sắc pháp cho là tự ngã của ta; diệt tâm tham ái nơi danh pháp, sắc pháp cho là của ta, diệt tâm ngã mạn xem ta hơn người, bằng người, kém thua người... Đó là đặc tính đặc biệt của Tạng Vi Diệu Pháp. Quả báu của sự học Tam Tạng - Người theo học và hành nghiêm chỉnh đúng đắn theo Tạng Luật, giữ gìn giới đức trong sạch và đầy đủ, do nhờ giới trong sạch làm nền tảng, nương nhờ giới tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tam Minh [10] , do năng lực quả báu của sự học Tạng Luật. - Người học thông thuộc Tạng Kinh có giới thanh tịnh làm nền tảng, để tiến hành thiền định dẫn đến chứng đắc bát thiền [11] , dùng bậc thiền làm nền tảng, nương nhờ bậc thiền làm đối tượng, tiến hành thiền tuệ, dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Lục Thông [12] , do năng lực quả báu của sự học Tạng Kinh. - Người học thông thuộc Tạng Vi Diệu Pháp có giới định làm nền tảng, tiến hành thiền tuệ dẫn đến sự chứng đắc thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích [13] , do năng lực của sự học Tạng Vi Diệu Pháp. NGŨ BỘ (PAÑCANIKĀYA) Toàn giáo pháp của Đức Phật nếu phân chia theo bộ (nikāya), thì có 5 bộ gồm có 40 quyển căn cứ theo kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại động Kaba Aye, Yangon xứ Myanmar. Trường Bộ Kinh (Dīghanikāyapāḷi) 1- Trường Bộ Kinh là gì? Trường Bộ Kinh gồm có 34 bài kinh dài chia làm 3 quyển: Sīlakkhandhavaggapāḷi gồm có 13 bài kinh dài. 2- Trung Bộ Kinh là gì? Trung Bộ Kinh gồm có 152 bài kinh trung bình chia làm 3 quyển: Mūlapaṇṇāsapāḷi: Có 5 chương, mỗi chương có 10 bài kinh trung bình. Gồm có 50 bài kinh trung bình. 3- Đồng Loại Bộ Kinh là gì? Đồng Loại Bộ Kinh có 7.762 bài kinh dài, ngắn khác nhau. Đặc biệt bộ này những bài kinh có điểm đồng loại nhau, được ghép chung lại với nhau thành một chương riêng biệt. Ví dụ: Những bài kinh liên quan đến chư thiên ghép chung lại với nhau thành nhóm gọi là devatasamyutta; những bài kinh liên quan đến Đức vua xứ Kosala ghép chung lại thành chương gọi là Kosalasamyutta v.v... Bộ Đồng Loại Bộ Kinh này có 5 quyển: Sagāthavaggasamyuttapāḷi gồm có 11 chương. Như vậy, tổng cộng tất cả 56 chương gồm có 7.762 bài kinh. 4- Chi Bộ Kinh là gì? Chi Bộ Kinh gồm có những bài kinh có chi pháp. Những bài kinh có một chi pháp, những bài kinh có hai chi pháp v.v... Cho đến những bài kinh có 11 chi pháp. Những bài kinh có một chi pháp gọi là: ekakanipāta. Những bài kinh có hai chi pháp gọi là: “dukanipāta v.v...” Những bài kinh có mười một chi pháp gọi là: “ekadassakanipāta.” Chi Bộ Kinh này có 3 quyển có 11 nipāta, gồm tất cả có 9.557 bài kinh ngắn dài khác nhau. 5- Tiểu Bộ Kinh là gì? Tiểu Bộ Kinh, danh từ tiểu (khuddaka) không có nghĩa là nhỏ, mà tất cả những bài kinh nào, quyển nào không có trong bốn bộ kinh trên; những bài kinh ấy, những quyển ấy được gom vào trong Tiểu Bộ Kinh này. Cho nên, Tạng Luật và Tạng Vi Diệu Pháp thuộc về Tiểu Bộ Kinh này. Như vậy, Tiểu Bộ Kinh gồm có: Vinayapiṭakapāḷi (Tạng Luật). Tiểu Bộ Kinh gồm có 2 tạng (Tạng Luật và Tạng Vi Diệu Pháp) và 18 quyển (bộ nhỏ). Bộ này rất rộng lớn. CỬU CHI (NAVAṄGA) Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia theo chi (aṅga), thì có 9 chi như sau: 1- Sutta (kinh): Gồm những bài kinh văn xuôi lẫn kệ, như kinh Maṅgalasutta, Ratanasutta... và Tạng Luật cũng được ghép vào chi sutta này. 2- Geyya (kệ): Gồm những bài kinh hoàn toàn bằng những câu kệ (không có đoạn văn xuôi) như những bài kệ trong phần Sagāthavaggasamyutta... 3- Veyyākaraṇa (kinh): Gồm những bài kinh hoàn toàn văn xuôi (không có kệ xen vào) như Dhammacakkappavattanasutta, Mahāsatipaṭṭhānasutta... và Tạng Vi Diệu Pháp cũng được ghép vào trong chi Veyyākaraṇa này. 4- Gāthā (kệ): Gồm những bài kệ không có tên bài kinh như Dhammapadagāthā, Theragāthā, Therīgāthā... 5- Udāna (bài tự thuyết): Gồm có 82 bài tự thuyết của Đức Phật do tâm hoan hỷ phát sinh. 6- Itivuttaka: Gồm có 110 bài kinh, thường bắt đầu có câu: Vuttam hetaṃ bhagavatā... Điều này đúng như lời Đức Thế Tôn dạy... 7- Jātaka (tiền kiếp): Những câu kệ liên quan đến 547 tích tiền kiếp của Đức Phật, bắt đầu tích Apannakajātaka và cuối cùng tích Vessantarajātaka. 8- Abbhūtadhamma: Gồm những bài kinh có pháp phi thường chưa từng có từ trước (acchariyabhūtadhamma), thường khởi đầu bằng câu: Này chư Tỳ khưu, những pháp phi thường chưa từng có từ trước... như bài kinh Pahāradasutta... 9- Vedalla: Gồm những bài kinh vấn đáp bằng trí tuệ hợp với hỷ như Cūlavedallasutta, Mahāvedallasutta, Sakkapānhāsutta... 84.000 PHÁP MÔN (DHAMMAKKHANDHA) Toàn giáo pháp của Đức Phật, nếu phân chia thành pháp môn (Dhammakkhandha) thì có 84.000 pháp môn, trong bộ Tam Tạng như sau: Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn. Phương pháp đếm pháp môn trong Tam Tạng - Trong Tạng Luật: Mỗi chuyện làm nguyên nhân đầu tiên để Đức Phật chế định điều giới, ban hành giới đến chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni là một pháp môn. Mỗi nguồn gốc phát sinh, mỗi cách phạm giới, mỗi cách không phạm giới v.v... mỗi điều là một pháp môn v.v... Như vậy, trong Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn. - Trong Tạng Kinh: Mỗi bài kinh có ý nghĩa pháp liên tục là một pháp môn. Trong bài kinh có nhiều đoạn, mỗi đoạn có ý nghĩa pháp riêng rẽ là một pháp môn, mỗi câu hỏi, mỗi câu trả lời là một pháp môn v.v... Như vậy, trong Tạng Kinh có 21.000 pháp môn. - Trong Tạng Vi Diệu Pháp: Pháp phân chia mỗi tika, mỗi duka là một pháp môn, phân loại tâm và tâm sở đồng sinh là một pháp môn v.v... Như vậy, trong Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 42.000 pháp môn. Trong 84.000 pháp môn này, Đức Phật trực tiếp thuyết dạy có 82.000 pháp môn, còn 2.000 pháp môn do chư bậc Thánh Arahán thuyết dạy. Như Ngài Đại đức Ānanda, bậc Thủ kho Tàng Pháp Bảo dạy rằng: “Dvāsiti Buddhato gaṇhiṃ Tôi là Ānanda * * *
DUY TRÌ PHÁP HỌC PHẬT GIÁO Pháp học Phật giáo là nguồn cội, là căn bản của Phật giáo. Khi pháp học còn tồn tại, thì pháp hành mới mong phát triển. Khi pháp hành phát triển tốt, thì pháp thành mới có thể phát sinh. Nếu pháp học bị tiêu hoại, thì pháp hành và pháp thành chắc chắn sẽ không còn nữa. Như vậy, các hàng Phật tử tại gia và bậc xuất gia cần phải có bổn phận theo học pháp học Phật giáo bằng tiếng Pāḷi, lời giáo huấn chính thức của Đức Phật tùy theo khả năng của mình, để giữ gìn duy trì Phật giáo được trường tồn trên thế gian tròn đủ 5.000 năm. Để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại. KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI Để giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo cho được đầy đủ, không để rời rạc, không cho thất lạc; cho nên, chư Đại Trưởng Lão kết tập Tam Tạng và Chú giải bằng tiếng Pāḷi. KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHẤT Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần thứ nhất, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn được 3 tháng 4 ngày (nhằm vào ngày mùng 4 tháng 7 âm lịch, trong mùa an cư nhập hạ) tại động Sattapaṇṇi gần thành Rājagaha xứ Māgaddha. Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải này gồm có 500 vị Thánh Arahán có đầy đủ trí tuệ phân tích, lục thông... đặc biệt thông thuộc Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa chủ trì Đại hội, chất vấn Ngài Đại đức Upāli về Tạng Luật và chất vấn Ngài Đại đức Ānanda về Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp. Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải được thực hiện suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam Tạng và Chú giải. Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần này bằng cách truyền khẩu (mukhapāṭha) chưa ghi chép bằng chữ viết. Đức vua Ajātasattu xứ Māgaddha là người hộ độ chư Thánh Arahán trong kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi này. Phân chia phận sự duy trì Tam Tạng, Ngũ Bộ Sau khi kết tập Tam Tạng và Chú giải xong, chư Thánh Arahán phân công mỗi vị có bổn phận giữ gìn duy trì Tam Tạng và Chú giải như sau: Về Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại đức Upāli. Ngài có trách nhiệm dạy Tạng Luật và Chú giải đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tạng Luật này. Khi Đức Phật còn tại thế, Đức Phật đã từng tuyên dương Ngài Đại đức Upāli là bậc Thánh Thanh Văn xuất sắc nhất về trì luật trong các hàng Thanh Văn đệ tử. Về Trường Bộ Kinh (Dīghanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại đức Ānanda. Ngài có trách nhiệm dạy Trường Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Trường Bộ Kinh này. Về Trung Bộ Kinh (Majjhimanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của nhóm đệ tử của Ngài Đại đức Sāriputta, các vị này có trách nhiệm dạy Trung Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Trung Bộ Kinh này. Về Đồng Loại Bộ Kinh (Samyuttanikāyapāḷi) thuộc về phận sự của Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa. Ngài có trách nhiệm dạy Đồng Loại Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Đồng Loại Bộ Kinh này. Về Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāyapāḷi), thuộc về phận sự chung của 500 chư Thánh Arahán. Quý Ngài có trách nhiệm dạy Tiểu Bộ Kinh đến các nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tiểu Bộ Kinh này. Về Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakapāḷi), gồm có 7 bộ lớn thuộc phận sự chung của 500 chư Thánh Arahán. Quý Ngài có trách nhiệm dạy Tạng Vi Diệu Pháp đến các nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tạng Vi Diệu Pháp này. KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHÌ Giáo pháp của Đức Phật được giữ gìn duy trì đúng theo Chánh Pháp trải qua được 100 năm, thì có nhóm Tỳ khưu Vajjīputta xứ Vesāli đặt ra 10 điều không hợp với pháp luật của Đức Phật là: 1- Kappati siṅgiloṇakappo: Tỳ khưu cất giữ muối trong ống bằng sừng với tác ý rằng: để làm đồ gia vị thức ăn ngày hôm sau, cũng được. 2- Kappati dvaṅgulakappo: Tỳ khưu thọ thực quá ngọ, mặt trời ngả qua hai lóng tay, cũng được. 3- Kappati gāmantarakappo: Tỳ khưu đã ngăn cản vật thực rồi tự nghĩ rằng: bây giờ ta đi vào xóm để dùng vật thực nữa, mà không cần làm đúng theo Luật, cũng được. 4- Kappati āvasakappa: Trong cùng Mahāsīmā, có nhiều nhóm riêng rẽ hành uposathakamma, cũng được. 5- Kappati anumatikappa: Chư Tăng trong nhóm hành tăng sự nghĩ rằng: Sẽ cho phép Tỳ khưu đến sau, cũng được. 6- Kappati ācinnakappa: Tỳ khưu hành theo pháp mà Thầy Tổ của mình thường thực hành, cũng được. 7- Kappati amathitakappa: Tỳ khưu đã ngăn cản vật thực rồi, dùng sữa tươi đã biến chất, chưa biến thành sữa chua, cũng được. 8- Kappati jaḷogiṃ pātuṃ: Tỳ khưu uống rượu nhẹ chưa thành chất say, cũng được. 9- Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ: Tỳ khưu dùng tọa cụ không có đường lai, cũng được. 10- Kappati jātarūparajataṃ: Tỳ khưu thọ nhận vàng bạc, cũng được. Đó là 10 điều do nhóm Tỳ khưu Vajjīputta đề xướng không đúng theo Chánh Pháp của Đức Phật. Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta (Mahā yassa), nghe tin nhóm Tỳ khưu Vajji xứ Vesāli đặt ra 10 điều như vậy, Ngài liền đến tận nơi hội họp chư Tỳ khưu Tăng giải thích để cho họ hiểu rõ, đó là 10 điều sai trái, không hợp với luật pháp của Đức Phật. Đây cũng là nguyên nhân khiến Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta triệu tập kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì tại ngôi chùa Vālikārama, gần thành Vesāli khoảng 100 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì này gồm có 700 bậc Thánh Arahán có đầy đủ Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú giải... do Ngài Đại Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta làm chủ trì, Ngài Đại Trưởng Lão Revata vấn, Ngài Đại Trưởng Lão Sabbakāmi giải đáp... Công cuộc kết tập được thực hiện trong suốt thời gian 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bô Tam Tạng và Chú giải, hoàn toàn y theo bổn chánh của kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất. Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng bằng khẩu truyền (mukhapātha, chưa ghi chép bằng chữ viết). Đức vua Kālāsoka xứ Vesāli hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này. Giáo pháp của Đức Phật một lần nữa được giữ gìn duy trì đúng theo chánh pháp. Tất cả chư Tỳ khưu thực hành nghiêm chỉnh giới luật, làm cho những người chưa có đức tin nơi Tam Bảo, lại phát sinh đức tin, những người nào đã có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo rồi, đức tin càng tăng trưởng. KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ BA Sau kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì, Phật giáo càng ngày càng phát triển, chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni càng đông, cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo càng nhiều, họ làm phước hộ độ cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu rất đầy đủ, nhất là vào thời kỳ Đức vua Dhammāsoka (Asoka).Đức vua là Bậc Minh Quân, trị vì toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, có đức tin trong sạch trong Phật giáo, hộ độ cúng dường 4 thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu rất đầy đủ, sung túc. Ngược lại, các nhóm tu sĩ ngoại đạo thì đời sống thiếu thốn khổ cực. Do đó, một số tu sĩ ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với chư Tỳ khưu, về mặt hình thức thì giống Tỳ khưu, nhưng về mặt nội tâm vẫn giữ nguyên tà kiến cố hữu của mình không hề thay đổi. Vì vậy, Tỳ khưu thật chánh kiến và Tỳ khưu giả tà kiến sống chung không thể hành tăng sự được, tình trạng này kéo dài suốt 7 năm. Chư Tỳ khưu trình sự việc này lên Đức vua Dhammāsoka (Asoka) và nhờ uy quyền của Đức vua để thanh lọc Tỳ khưu giả ngoại đạo tà kiến. Đức vua Asoka là Đấng Minh Quân và cũng là một cận sự nam có đức tin trong sạch hộ trì Tam Bảo, Đức vua học giáo pháp của Đức Phật với Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa, nên hiểu rõ chánh kiến trong Phật giáo và các tà kiến của ngoại đạo. Đức vua thỉnh chư Tỳ khưu xét hỏi từng vị một, qua cuộc xét hỏi này đã loại bỏ ra được 60.000 Tỳ khưu giả có tà kiến ngoại đạo, Đức vua ban cho mỗi người một bộ đồ trắng, bắt buộc hoàn tục, trở thành người cư sĩ; còn lại tất cả Tỳ khưu thật có chánh kiến trong Phật giáo đoàn kết cùng nhau hành tăng sự trở lại. Nhân dịp này, Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa đã đứng ra triệu tập kỳ kết tập Tam Tạng Pāḷi lần thứ ba. Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ ba này được tổ chức tại chùa Asokārāma xứ Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Kỳ tập Tam Tạng lần thứ ba này, gồm có 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú giải... do Ngài Đại Trưởng Lão Moggali-puttatissa làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện trong suốt thời gian 9 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam Tạng và Chú giải hoàn toàn giống như bổn chánh của hai kỳ kết tập trước. Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng bằng khẩu truyền (Mukhapātha, chưa ghi chép bằng chữ viết). Đức vua Asoka xứ Pāṭaliputta hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này. KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ TƯ Đức vua Asoka không những hộ trì Phật giáo được phát triển trong nước, mà còn gửi các phái đoàn chư Tăng sang các nước láng giềng khác, để truyền bá Phật giáo, như phái đoàn chư Tăng do Đại đức Mahindadẫn đầu sang truyền bá Phật giáo ở đảo quốc Srilankā. Trên đất nước Srilankā Phật giáo được thịnh hành và phát triển tốt, từ Đức vua cho đến quan quân và dân chúng đều có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, đã xuất gia trở thành Tỳ khưu và Tỳ khưu ni rất đông. Một thời đất nước Srilankā gặp phải cuộc phiến loạn, dân chúng gặp cảnh thiếu thốn, nên đời sống của chư Tỳ khưu cũng chịu ảnh hưởng. Có số Tỳ khưu sức khỏe yếu kém, nên phận sự ôn lại Tam Tạng và Chú giải thuộc lòng rất vất vả. Khi cuộc phiến loạn đã dẹp xong, chư Đại đức suy xét về sau này, trí nhớ và trí tuệ con người càng ngày càng kém dần. Cho nên, chư Tỳ khưu học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì cho được đầy đủ không phải là việc dễ dàng. Một hôm, Đức vua Vaṭṭagāmanī ngự đến chùa Mahāvihāra; nhân dịp ấy, chư Đại Trưởng Lão thưa với Đức vua rằng: - Thưa Đại vương, từ xưa đến nay, chư Đại đức Tăng có phận sự học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì giáo pháp của Đức Phật. Trong tương lai, đàn hậu sinh là những Đại đức khó mà học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải một cách đầy đủ được. Như vậy, giáo pháp của Đức Thế Tôn sẽ bị mai một mau chóng theo thời gian. Thưa Đại vương, muốn giữ gìn duy trì Tam Tạng, Chú giải được đầy đủ, vậy nên tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng, Chú giải ghi chép bằng chữ viết trên lá buông, để lưu lại cho đời sau. Đức vua Vaṭṭagāmanī hoan hỷ với lời của chư Đại Trưởng Lão. Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ tư này được tổ chức tại động Ālokalena vùng Matula-janapada xứ Srilankā, khoảng thời gian 450 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Kỳ kết tâp Tam Tạng lần này gồm 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân Tích, do Ngài Đại Trưởng Lão Mahādhammarakkhita làm chủ trì, công cuộc kết tập được thực hiện suốt một năm mới hoàn tất việc ghi chép trọn bộ Tam Tạng, Chú giải bằng chữ viết trên lá buông. Sau đó, chư bậc Thánh Arahán kết tập Tam Tạng bằng cách khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản chánh của ba kỳ kết tập Tam Tạng lần trước. Kỳ kết tập Tam Tạng lần này là lần đầu tiên ghi chép bằng chữ viết trên lá buông đầy đủ bộ Tam Tạng và Chú giải, gọi là: “Potthakaropanasaṅgiti”. Đức vua Vaṭṭagāmanī Abhaya xứ Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này. KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NĂM Dưới thời vua Asoka có gửi phái đoàn chư Tăng do Ngài Đại Trưởng Lão Soṇa và Ngài Đại Trưởng Uttara sang vùng Suvaṇṇa bhūmi gồm các nước: Indonesia, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào... để truyền bá Phật giáo. Phật giáo ở các nước trong vùng này trải qua bao cuộc thăng trầm, tùy theo vận mệnh của mỗi nước. Đất nước Myanmar vào thời đại Vua Mindon đóng đô tại kinh thành Mandalay, Đức vua là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nhiệt tâm hộ trì Tam Bảo, nghĩ rằng: “Phât giáo thường liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, mỗi khi đất nước bị xâm lăng, kẻ thù thường đốt kinh sách Phật giáo”. Đức vua muốn bảo tồn giáo pháp của Đức Phật, nên Người thỉnh chư Đại Trưởng Lão tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng, khắc chữ trên những tấm bia đá, để giữ gìn duy trì Tam Tạng Pháp Bảo được lâu dài. Chư Đại Trưởng Lão vô cùng hoan hỷ chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Đức vua, tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ năm tại kinh thành Mandalay xứ Myanmar Phật lịch 2.404. Kỳ kết tập Tam Tạng lần này gồm 2.400 vị Đại đức là những bậc uyên bác Tam Tạng và Chú giải, do Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Jāgara làm chủ trì; ngoài ra còn có những vị Đại đức rất xuất sắc như Ngài Bhaddanta Narindabhidhaja,... bắt đầu khởi công khắc Tam Tạng trên bia đá vào Phật lịch năm 2.404 cho đến Phật lịch 2.415, trải qua suốt 11 năm ròng rã, mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng trên 729 tấm bia đá: Tạng Luật gồm có 111 tấm. Sau khi khắc bộ Tam Tạng bằng chữ trên những tấm bia đá xong, chư Đại Trưởng Lão tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng bằng khẩu truyền suốt 6 tháng mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng y theo bổn chánh của bốn kỳ kết tập Tam Tạng trước. Gọi là: “Selakkharāropanasaṅgīti”. Kỳ kết tập Tam Tạng này do Đức vua Mindon xứ Myanmar hộ độ. Lần đầu tiên toàn bộ Tam Tạng được ghi khắc trên bia đá, những tấm bia đá này hiên nay vẫn còn nguyên vẹn ở kinh thành cổ Mandalay xứ Myanmar. Các nhà in kinh sách Phật giáo đều y cứ vào những tấm bia đá này làm nền tảng căn bản. Về sau có Đạo sĩ Khanti đứng ra tổ chức khắc toàn bộ Chú giải trên những tấm bia đá, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn tại Mandalay. KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ SÁU Phật giáo đã trải qua thời gian khá lâu, Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā... đã in ra thành sách, việc sao đi chép lại, in đi in lại nhiều lần, khó mà tránh khỏi sự sai sót. Do đó, các bộ Tam Tạng, Chú giải... của mỗi nước có chỗ sai chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp học Phật giáo không hoàn toàn giống y nguyên bổn chánh. Chính phủ Myanmar thành lập hội Phật giáo có tên “Buddhasāsanasamiti” vào năm Phật lịch 2.497 để lo tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ sáu, tại động nhân tạo Lokasāma (Kaba Aye) thủ đô Yangon, Myanmar. Chính phủ thỉnh tất cả mọi bộ Tam Tạng, Chú giải hiện có trên các nước Phật giáo, để làm tài liệu đối chiếu từng chữ, từng câu của mỗi bổn. Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ sáu này gồm 2.500 vị Đại đức thông hiểu Tam Tạng, Chú giải... rành rẽ về ngữ pháp Pāḷi, chia thành nhiều ban đối chiếu sửa chữa lại cho đúng. Công việc được thực hiện bắt đầu từ ngàyrằm tháng tư Phật lịch năm 2.498 cho đến ngày rằm tháng tư Phật lịch năm 2.500, ròng rã suốt 2 năm mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā.... Sau đó, chính phủ Myanmar thỉnh chư Đại đức kết tập Tam Tạng bằng khẩu, do Đại Trưởng Lão Revatachủ trì, Đại Trưởng Lão Sobhana vấn, Đại Trưởng Lão Vicittasā-rābhivaṃsa thông thuộc Tam Tạng trả lời theo Tam Tạng, Chú giải. Trong buổi lễ này Chính phủ Myanmar, đứng đầu là Thủ tướng U Nu, tổ chức khánh thành kết tập Tam Tạng rất long trọng, có mời nguyên thủ Quốc gia của các nước Phật giáo cùng phái đoàn chư Tăng, cân sự nam, cận sự nữ gồm có 25 nước trên thế giới đến tham dự, để đánh dấu lịch sử Phật giáo đã trải qua một nửa tuổi thọ 2.500 năm, dưới sự bảo trợ hộ độ của Chính phủ Myanmar cùng Phật tử trong nước và các nước khác trên thế giới. Bộ Tam Tạng, Chú giải được kết tập lần thứ sáu này được xem là mẫu mực cho các nước Phật giáo hệ phái Theravāda. Để Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng sinh được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc chừng ấy. Cho nên, chư Đại Trưởng Lão tiền bối đã dày công gìn giữ và duy trì pháp học Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế, và sau khi Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn. Tất cả quý Ngài có phận sự bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo, nên đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, không để cho rời rạc, thất lạc. Chư Đại Trưởng Lão đã cố gắng giữ gìn duy trì từ trước cho đến nay. Công việc học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo là bổn phận của mọi người Phật tử, là bậc xuất gia cũng như các hàng tại gia cư sĩ. Chữ Pāḷi là ngôn ngữ của Chư Phật, đối với chúng ta học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi cần phải hiểu rõ ý nghĩa trực tiếp hoặc gián tiếp qua ngôn ngữ riêng của mình. Tại nước Myanmar, công việc học Tam Tạng và Chú giải Pāḷi được phổ cập đến chư Sadi, chư Tỳ khưu. Hằng năm, bộ Tôn giáo Myanmar có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng bằng tiếng Pāḷi, và thi viết trả lời những câu hỏi về Tam Tạng và Chú giải Pāḷi. Thi thuộc lòng Tam Tạng Phật lịch năm 2.492 (Dương lịch năm 1948), bộ Tôn giáo Myanmar bắt đầu tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi lần thứ nhất. Từ đó về sau, hằng năm, có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi. Khi Đại đức thí sinh thi đậu phần học thuộc lòng xong, tiếp tục thi phần viết trả lời những câu hỏi về Tam Tạng và Chú giải Pāḷi. Đến nay, Phật lịch năm 2.547 (Dương lịch năm 2003) đã trải qua 55 kỳ thi. Căn cứ theo số liệu tổng kết chư Đại đức thí sinh đã thi đậu qua 55 kỳ thi như sau:
Tam Tạng trọn bộ: 9 vị
Tam Tạng trọn bộ: 3 vị Chư Đại Trưởng Lão thông thuộc Tam Tạng - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vicittasārābhivaṃsa Visiṭṭhapiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 6, Phật lịch 2.497 (DL.1953) lúc Ngài 42 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Neminda Visiṭṭhapiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 12, Phật lịch 2.503 (DL.1959) lúc Ngài 32 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Kosalla Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 16, Phật lịch 2.507 (DL.1963) lúc Ngài 36 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sumaṅgālaṅkāra Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 26, Phật lịch 2.517 (DL.1973) lúc Ngài 27 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sirindābhivaṃsa Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 37, Phật lịch 2.528 (DL.1984) lúc Ngài 37 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vāyāmindābhivaṃsa Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 48, Phật lịch 2.539 (DL.1995) lúc Ngài 39 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Koṇḍañña Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 50 Phật lịch 2.541 (DL.1997) lúc Ngài 55 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sīlakkhandhābhivaṃsa Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 52, Phật lịch 2.543 (DL.1999) lúc Ngài 34 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Vaṃsapālālaṅkāra Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 52, Phật lịch 2.543 (DL.1999) lúc Ngài 34 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Gandhamālālaṅkāra Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 53 Phật lịch 2.544 (DL.2000) lúc Ngài 33 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Sundara Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 53 Phật lịch 2.544 (DL.2000) lúc Ngài 45 tuổi. - Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta Indapāla Tipiṭakadhara đậu kỳ thi thứ 53, Phật lịch 2.544 (DL. 2000) lúc Ngài 40 tuổi. Trên đây là danh sách những vị Đại Trưởng Lão thi đậu Tipiṭakadhara: thông thuộc đầy đủ bộ Tam Tạng: “Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp” gồm có 84.000 pháp môn mà Đức Phật đã thuyết giảng, chế định suốt 45 năm ròng rã, kể từ khi thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến phút cuối cùng tịch diệt Niết Bàn. Những vị Đại Trưởng Lão này không chỉ thông thuộc Tam Tạng (Tipiṭakadhara) gồm có 40 quyển, mà còn thông suốt đầy đủ các bộ Aṭṭhakathā (Chú giải) gồm có 52 quyển, các bộ Ṭīkapāḷi, các bộ Anuṭīkāpāḷi gồm có 26 quyển. Ngoài 12 vị Đại Trưởng Lão Tipiṭakadhara thông thuộc đầy đủ bộ Tam Tạng ra, còn có mấy chục vị Đại đức thi đậu Nhị Tạng, hơn mấy trăm vị Đại đức thi đậu Nhất Tạng, và còn rất nhiều vị Đại đức thi đậu Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, v.v... Như vậy, gọi là phận sự học pháp học Chánh Pháp để giữ gìn duy trì giáo pháp của Đức Phật được lưu truyền lâu dài trên thế gian này, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho chúng sinh, nhất là nhân loại, chư thiên, phạm thiên... Qua các thời kỳ học thuộc lòng Tam Tạng * Thời kỳ đầu: Kể từ khi Đức Phật còn tại thế cho đến trước Phật lịch năm 450, trong khoảng thời gian này, trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải chưa ghi thành chữ viết; cho nên, việc học Tam Tạng bằng cách khẩu truyền tâm thọ: vị Thầy đọc, các học trò lặp theo ghi nhớ nằm lòng. Như vậy, vị Thầy thông thuộc chừng nào, các học trò cũng thông thuộc chừng ấy; nếu vị thầy không thuộc bộ nào, thì vị Thầy gửi các học trò của mình đến vị Đại Trưởng Lão khác xin học bộ ấy. Cho nên, việc học trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải trong thời kỳ này rất vất vả khó khăn. * Thời kỳ sau: Kể từ sau thời kỳ kết tập Tam Tạng và các bộ Chú giải lần thứ tư, khoảng thời gian 450 năm, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, kỳ kết tập Tam Tạng và các bộ Chú giải này được ghi bằng chữ viết trên lá buông. Cho nên, việc học Tam Tạng trọn bộ và các bộ Chú giải tương đối ít vất vả khó khăn hơn thời kỳ trước, song có phần hạn chế, vì số bổn Tam Tạng và Pāḷi được ghi trên lá buông không nhiều. * Thời hiện tại này, hầu hết các nước Phật giáo lớn như: nước Myanmar, nước Thái Lan, nước Srilankā, nước Lào, nước Campuchia, v.v... đều có trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải được in ra thành sách bằng mẫu tự của xứ mình. Cho nên, việc học trọn bộ Tam Tạng và các bộ Chú giải có nhiều điều kiện thuận lợi hơn. Nhưng việc dạy Tam Tạng và việc học Tam Tạng trong mỗi số nước phổ biến chưa được rộng đến toàn thể Phật tử. Hiện nay, phần đông được biết đến xứ Myanmar có chư Đại Trưởng Lão dạy Tam Tạng và Chú giải, và có chư Tỳ khưu theo học Tam Tạng và Chú giải. Hằng năm, Chính phủ Myanmar, bộ Tôn giáo tổ chức kỳ thi Tam Tạng, kết quả đã có 12 vị Đại Trưởng Lão thi đậu trọn bộ Tam Tạng và thông suốt Chú giải; ngoài ra, còn có những vị Đại đức khác thi đậu Nhị Tạng, Nhất Tạng, một Nikāya, hai Nikāya, v.v... giúp giữ gìn duy trì pháp học Phật giáo được trường tồn. Đó là điều đáng cho tất cả mọi người Phật tử vô cùng hoan hỷ. Thời kỳ Đức Phật còn tại thế, việc thông thuộc Tam Tạng không những chỉ có chư vị Đại Trưởng Lão, Đại đức, mà còn có nhiều vị cận sự nam, cận sự nữ nữa. Bởi vì, việc bảo tồn Phật giáo là phận sự chung của các hàng Phật tử, gồm cả bậc xuất gia lẫn các hàng tại gia cư sĩ. Để bảo tồn Phật giáo, chỉ có một phương pháp duy nhất là mỗi người Phật tử: Bậc xuất gia Tỳ khưu, Sadi, cận sự nam, cận sự nữ cần phải học thuộc lòng Tam Tạng Pāḷi, Chú giải Pāḷi, Ṭīkāanuṭīkāpāḷi, theo khả năng của mình, nên hiểu rõ ý nghĩa đúng theo lời giáo huấn của Đức Phật. Khi đã thông thuộc pháp học Phật giáo, thì hành giả mới có thể thực hành đúng theo Chánh pháp được. Hoặc khi giảng dạy đến người khác đúng theo Chánh pháp. Cho nên, học pháp học Phật giáo sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho mình và cho người khác. Đặc biệt còn giữ gìn và duy trì pháp học Phật giáo được trường tồn trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho tất cả chúng sinh. -ooOoo-
TIPIṬAKA - AṬṬHAKATHĀ - ṬĪKĀ - ANUṬĪKĀ Pháp học Phật giáo gồm có Tipiṭaka (Tam Tạng), Aṭṭhakathā (Chú giải), Ṭīkā (Phụ Chú giải), Anuṭīkā (Phụ theo Chú giải). Căn cứ theo kỳ kết tập Tam tạng lần thứ sáu Phật lịch 2.500 năm tại động Kaba Aye, thủ đô Yangon, nước Myanmar như sau: - Tipiṭakapāḷi gồm có 40 quyển. TIPIṬAKAPĀḶI (TAM TẠNG) Tipiṭakapāḷi (Tam Tạng) gồm có 40 quyển được phân quyển theo mỗi Tạng như sau:
- Pārājikapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
* Dīghanikāya (Trường Bộ Kinh) có 3 quyển: - Sīlakkhandhavaggapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật. * Majjhimanikāya (Trung Bộ Kinh) có 3 quyển: - Mūlapaṇṇāsapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật. * Saṃyuttanikāya (Đồng Loại Bộ Kinh) có 5 phần gom vào 3 quyển: - Sagāthāvagga và Nidānavaggasaṃyuttapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật. * Aṅguttaranikāya (Chi Bộ Kinh) có 11 chi gom vào 3 quyển: - Ekaka-duka-tika-catukkanipātapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật. * Khuddakanikāya (Tiểu Bộ Kinh) gồm có 19 bộ gom vào 11 quyển: - Khuddkapāṭha-dhammapada-udāna-itivuttka-suttanipātatapāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật.
- Dhammasaṅganipāḷi do Đức Phật, trong thời kỳ Đức Phật. Tam Tạng gồm có 40 quyển được phân chia theo mỗi tạng như sau: - Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi) có 5 quyển. AṬṬHAKATHĀPĀḶI (CHÚ GIẢI) Chú giải (Aṭṭhakathāpāḷi) gồm có 51 quyển, Chú giải này được phân chia thành mỗi Tạng như sau: 1- Chú giải Tạng Luật: Gồm có 6 quyển - Pārājikakaṇḍa aṭṭhakathāpāḷi (pathama-dutiya 2 quyển) gọi Samantapāsādika aṭṭhakathà, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976. - Pācityādi aṭṭhakathāpāḷi gọi Samantapāsādika aṭṭhakathà, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976. - Cūḷavaggādi aṭṭhakathāpāḷi gọi Samantapāsādika aṭṭhakathà, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976. - Vinayasaṅgaha aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Sāriputta, Phật lịch 976. - Kaṅkhāvitaraṇī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976 - 1.000. 2- Chú giải Tạng Kinh: Gồm có 42 quyển được phân chia theo mỗi bộ (nikāya) như sau: * Chú giải Trường Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển - Sīlakkhandhavagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Mahāvagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Pāthikavagga aṭṭhakathāpāḷi, gọi Sumaṅgalavilāsinī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. * Chú giải Trung Bộ Kinh: Gồm có 4 quyển: - Mūlapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi (pathamadutiya 2 quyển), gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Majjhimapaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Uparipaṇṇāsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Papañcasūdanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. * Chú giải Đồng Loại Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển - Sagāthavaggasamyutta aṭṭhakathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 976. - Nidānavagga và Khandhavaggasamyutta aṭṭhakathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Sāḷāyatanavagga-Mahāvaggasamyutta aṭṭhakathāpāḷi gọi Sāratthapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. * Chú giải Chi Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển: - Aṅguttara aṭṭhakathāpāḷi (pathama-dutiya-tatiya 3 quyển) gọi Manorathapūraṇī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. * Chú giải Tiểu Bộ Kinh: Gồm có 29 quyển - Visuddhimagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển), do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 972. - Khuddakapāṭha aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthajotikā aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Dhammapada aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển), do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Suttanīpāta aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Paramatthajotikā aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Jātaka aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya-tatiya-catuttha-pañcama-chaṭṭha-sattama 7 quyển), do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Udāna aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Itivuttaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla. - Vimānavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Petavatthu aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Theregāthā aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Therīgathā aṭṭhakathāpāḷi gọi Paramatthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Cariyāpiṭaka aṭṭhakathāpāḷi gọi Paratthadīpanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Cūḷaniddesa-netti aṭṭhakathāpāḷi gọi Saddhammajotikà aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Upasena. - Mahàniddesa-netti aṭṭhakathāpāḷi gọi Sad-dhammajotikā aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Upasena. - Buddhavaṃsa aṭṭhakathāpāḷi gọi Madhurattha-vilāsinī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Buddhadatta, Phật lịch hơn 900. - Paṭisambhidāmagga aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Saddham-mapakāsanī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahānāma, Phật lịch 1.061. - Apadāna aṭṭhakathāpāḷi (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Visuddhajanavilāsinī, do Ngài Đại đức Poraṇācariya.
- Dhammasaṅganī aṭṭhakathāpāḷi gọi Aṭṭhasālinī aṭṭhakathāpāḷi, do Ngài Đại đức Mahābuddha-ghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Vibhaṅga aṭṭhakathāpāḷi gọi Sammohavinodanī aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. - Pañcapakaraṇa aṭṭhakathāpāḷi do Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa, Phật lịch 977 - 1.000. Chú giải gồm có 51 quyển được phân chia thành Chú giải mỗi Tạng: - Chú giải Tạng Luật có 6 quyển.
ṬĪKĀPĀḶI - ANUṬĪKĀPĀḶI Phụ chú giải (Ṭīkapāḷi) và Phụ theo Chú giải (Anuṭīkāpāḷi) gồm có 26 quyển được phân chia Phụ chú giải theo mỗi Tạng như sau: 1- Phụ chú giải Tạng Luật: Gồm có 7 quyển - Sāratthadīpanīṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya 3 quyển), do Ngài Đại đức Sāriputta, Phật lịch 1.707 - 1.725. - Vimativinodanīṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển), do Ngài Đại đức Coḷiyakassapa. - Vājirabuddhiṭīkā, do Ngài Đại đức Vajirabuddhi. - Kaṅkhāvitaraṇīpuraṇābhinavaṭīkā gọi Vinayatthamañjūsāṭīkā, do Ngài Đại đức Buddhanāga. Ngoài ra, còn các Phụ chú giải về Tạng Luật như: - Vinayālaṅkāraṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển). - Vinayavinicchayaṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Vinayatthasārasandīpanī. - Khuddasikkhā, Mūlasikkhāṭīkā v.v... 2- Phụ chú giải Tạng Kinh: Gồm có 16 quyển phân chia theo mỗi bộ (nikāya) như sau * Phụ chú giải Trường Bộ Kinh: Gồm có 5 quyển - Sīlakkhandhavaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Sīlakkhandhavaggābhinavaṭīkā (paṭhama-dutiya 2 quyển) gọi Sādhujana-vilāsinīṭīkā, do Ngài Đại đức Ñāṇābhivaṃsadhammasenāpati. - Mahāvaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Pāthikavaggaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. * Phụ chú giải Trung Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển - Mūlapaṇṇāsaṭīkā gọi (paṭhama-dutiya 2 quyển) Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Majjhima-Uparipaṇṇāsaṭīkā gọi Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. * Phụ chú giải Đồng Loại Bộ Kinh: Gồm có 2 quyển - Saṃyuttaṭīkā gọi (paṭhama-dutiya 2 quyển) Līnatthapakāsanāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. * Phụ chú giải Chi Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển 2.11- Anguttaraṭīkā (paṭhama-dutiya-tatiya 3 quyển) gọi Sāratthamañjūsāṭīkā do Ngài Đại đức Sāriputta, Phật lịch 1.707 - 1.725. * Phụ chú giải Tiểu Bộ Kinh: Gồm có 3 quyển - Visuddhimaggamahāṭīkā (pathama-dutiya 2 quyển) gọi Paramattha-mañjūsāṭīkā, do Ngài Đại đức Dhammapāla, Phật lịch 1.100 - 1.200. - Nettiṭīkā và Nettivibhāvinīṭīkā, do Ngài Đại đức Saddhammapāla, Phật lịch 1986. 3- Phụ chú giải - Phụ theo chú giải về Tạng Vi Diệu Pháp: Gồm có 3 quyển - Dhammasaṅgaṇīmūlaṭīkā do Ngài Đại đức Ānanda và phần Anuṭīkapāḷi do Ngài Đại đức Dhammapāla. - Vibhaṅgamūlaṭīkā do Ngài Đại đức Ānanda và phần Anuṭīkā do Ngài Đại đức Dhammapāla. - Pañcapakaraṇamūlaṭīkā do Ngài Đại đức Ānanda và phần Anuṭīkāpāḷi do Ngài Đại đức Dhammapāla. Ngoài ra, còn các Phụ chú giải về Tạng Vi Diệu Pháp như: - Abhidhammavatāraṭīkā (2 quyển). - Maṇisārāmañjūsāṭīkā (2 quyển). - Abhidhammavibhāvanīṭīkā. - Abhidhammatthasaṅgaha v.v... Ví dụ như quyển Abhidhammattha Saṅgaha tuy là một quyển sách nhỏ, song nó có một tầm quan trọng rất lớn, đối với các hàng Phật tử, quyển sách này được xem như một “chiếc chìa khóa vạn năng” để khám phá kho tàng Tam Tạng Pháp Bảo v.v... Phụ chú giải (Ṭikapāḷi) và Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) trực tiếp riêng theo mỗi Tạng gồm có 26 quyển được phân chia như sau: - Tạng Luật có 7 quyển. Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana) Pháp học Phật giáo đó là Tam Tạng và Chú giải, đã có từ thời kỳ Đức Phật. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, trải qua thời gian lâu, các hàng hậu sinh theo học Tam Tạng và các Chú giải, không phải vị nào cũng có khả năng hiểu rõ đúng đắn theo chánh pháp. Do đó, quý Ngài Đại Trưởng Lão thông thuộc Tam Tạng, thông hiểu các Chú giải, biên soạn những bộ Phụ chú giải (Ṭīkāpāḷi) và bộ Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) để giải thích những điều khó hiểu trong Tam Tạng và Chú giải. Tam Tạng (Tipiṭaka) là gì? Tam Tạng đó là Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp mà Đức Phật đã chế định, đã thuyết giảng kể từ khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cho đến trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Trong Tam Tạng này, tuy có những lời dạy của chư Thánh Arahán, chư thiên, phạm thiên, cận sự nam, cận sự nữ v.v... Nhưng những lời này được Đức Phật nhắc lại, hoặc xác nhận, nên cũng được xem như lời dạy của Đức Phật. Chú giải (Aṭṭhakathā) là gì? Chú giải đó là những lời giải thích, giảng giải những điều nào khó hiểu từ trong Tam Tạng, để giúp hiểu rõ đúng đắn theo chánh pháp. Có khi chính Đức Phật giải thích, giảng giải những điều ấy gọi là Pakiṇṇakadesanà (thuyết giảng rải rác); có khi chư Thánh Arahán giải thích, giảng giải. Qua các thời kỳ kết tập Tam Tạng đều có các Chú giải, các Chú giải này được gom lại thành các bộ Đại Chú giải. Vào thời kỳ Phật lịch khoảng 972 năm (sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn), Ngài Đại đức Mahābuddhaghosa là Bậc có trí tuệ sáng suốt, thông thuộc Tam Tạng và thông suốt các Chú giải, Ngài từ xứ Ấn Độ đi sang đảo quốc Srilankà. Lần đầu tiên Ngài biên soạn bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo), Phật lịch 972. Sau đó, Ngài xin chư Đại Trưởng Lão cho phép Ngài dịch toàn bộ Aṭṭhakathāpāḷi (Chú giải) bằng tiếng Sihali (tiếng Srilankà) ra tiếng Pāḷi. Ngài có trí tuệ sáng suốt, có khả năng đặc biệt phân loại các Chú giải thành từng mỗi Tạng riêng biệt. Trong Chú giải của mỗi Tạng, Ngài phân chia ra thành mỗi phần, mỗi đoạn, mỗi điều giới, mỗi bài kinh, bài kệ, đặc biệt mỗi chữ khó hiểu trong mỗi đoạn, mỗi câu v.v... Tất cả là một công trình vĩ đại, để lại cho các đàn hậu sinh được dễ dàng thuận lợi để theo học pháp học Phật giáo và hành pháp hành Phật giáo. Phụ chú giải (Ṭīkāpāḷi) và Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) là gì? Những bộ Phụ chú giải (Ṭīkapāḷi) và Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) là những lời giải thích, giảng giải những điều khó hiểu từ trong Chú giải. Những bộ sách này được biên soạn sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn trải qua nhiều năm sau. Trí tuệ của các thế hệ hậu sinh mỗi ngày một kém dần; cho nên, việc theo học Tam Tạng và Chú giải để hiểu biết đúng đắn theo chánh pháp không phải là việc dễ dàng. Do đó, quý Ngài Đại Trưởng Lão dày công biên soạn những bộ Phụ chú giải (Ṭīkapāḷi), bộ Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) thêm để giúp cho thế hệ hậu sinh theo học pháp học Phật giáo được thuận lợi, giúp cho hiểu rõ đúng đắn chánh pháp. Pháp học Phật giáo là nền tảng căn bản của pháp hành Phật giáo. Cho nên, hành giả cần phải học và hiểu rõ đúng đắn theo pháp học, đó là điều tối ư quan trọng; bởi vì, khi hiểu đúng pháp học Phật giáo, rồi mới có thể hành đúng theo pháp hành Phật giáo. Khi hành đúng theo pháp hành Phật giáo, thì mới dẫn đến kết quả chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, đó là pháp thành Phật giáo, pháp giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Nếu hành giả học hiểu sai về pháp học Phật giáo, thì chắc chắn hành sai pháp hành Phật giáo. Nếu hành sai pháp hành Phật giáo, thì chắc chắn không thể dẫn đến chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, vẫn tiếp tục khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Vì vậy, người nào muốn hiểu biết đúng đắn theo Tam Tạng (Tipiṭakapāḷi) lời giáo huấn của Đức Phật, thì người ấy cần phải học hỏi, tra cứu thêm Chú giải (Aṭṭhakathā-pāḷi) để giúp cho hiểu rõ đúng đắn. Nếu chưa hiểu rõ về pháp ấy, thì người ấy cần phải học hỏi, tra cứu thêm Phụ chú giải (Ṭīkāpāḷi), Phụ theo chú giải (Anuṭīkāpāḷi) để giúp cho hiểu rõ đúng đắn về pháp ấy. Đối với các hàng Phật tử là Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ theo học pháp học Phật giáo là một phận sự quan trọng, giữ gìn và duy trì chánh pháp, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chính mình và truyền dạy đến những người khác, để cùng nhau bảo tồn Phật giáo được trường tồn trên thế gian đúng 5.000 năm, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho tất cả chúng sinh, nhất là chư thiên và nhân loại. Học thuộc lòng Tam tạng, Chú giải theo khả năng trí nhớ, trí tuệ của mình, đó là cách ưu việt nhất, để bảo tồn pháp học Phật giáo được nguyên vẹn. Pháp hành Phật giáo (Paṭipattīsāsana) Pháp hành Phật giáo là pháp tiếp theo sau pháp học Phật giáo. Giai đoạn đầu, hành giả cần phải học pháp học Phật giáo cho hiểu rõ kỹ càng lời giáo huấn của Đức Phật, rồi bước sang giai đoạn giữa hành pháp hành Phật giáo. Pháp hành Phật giáo là gì? Pháp hành Phật giáo có nhiều pháp, song có 3 pháp chính là: - Pháp hành giới. * Pháp hành giới là gì? Pháp hành giới đó là tác ý thiện tâm, giữ gìn thân và khẩu tránh xa mọi ác nghiệp tội lỗi. Giữ gìn giới của mình được trong sạch thanh tịnh, để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Mỗi hạng người có giới khác nhau: - Đối với hạng tại gia cư sĩ là cận sự nam, cận sự nữ có ngũ giới là thường giới, còn có bát giới, cửu giới, thập giới... tùy theo khả năng. - Đối với bậc xuất gia là Sadi, Tỳ khưu: * Sadi có 10 Sadi giới, 10 giới hoại phẩm hạnh Sadi, 10 giới hành phạt, 75 điều giới hành... * Vị Tỳ khưu có tứ thanh tịnh giới. Trong bhikkhupātimokkasīla có 227 điều giới, nếu tính đầy đủ trong Tạng Luật, thì có 91.805.036.000 điều giới. Muốn giữ gìn giới được trong sạch, thanh tịnh điều trước tiên cần phải học, hiểu rõ kỹ càng tất cả mọi điều giới của mình, rồi mới có thể hành giới được đầy đủ trọn vẹn và trong sạch thanh tịnh. Giới có thể diệt được phiền não loại thô ở thân và khẩu (vitikkamakilesa), để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ được phát triển. * Pháp hành định là gì? Pháp hành định đó là pháp hành thiền định. Hành giả muốn tiến hành thiền định, điều trước tiên, cần phải học cho hiểu rõ kỹ càng 40 đề mục thiền định; rồi chọn một đề mục thiền hữu sắc nào thích hợp với bản tánh riêng của mình. Hành giả học hỏi kỹ càng phương pháp tiến hành của đề mục thiền định ấy. Khi hành giả tiến hành thiền định, sử dụng đề mục thiền định ấy làm đối tượng tiến hành thiền định. Hành giả chỉ có định tâm an trú duy nhất trong đề mục thiền định ấy mà thôi; cho đến khi chứng đắc 5 hoặc 4 bậc thiền hữu sắc. Sau khi đã chứng đắc các bậc thiền hữu sắc xong, nếu hành giả tiếp tục tiến hành thiền định để chứng đắc các bậc thiền vô sắc, thì hành giả cần phải thay đổi đối tượng thiền vô sắc. Đối tượng thiền vô sắc có 4 đối tượng theo tuần tự từ bậc thiền thấp đến bậc thiền cao. Mỗi đối tượng thiền vô sắc có khả năng dẫn dắt chứng đắc một bậc thiền vô sắc, có 4 bậc thiền vô sắc. Các bậc thiền có thể đè nén chế ngự được phiền não loại trung (pariyuṭṭhānakilasa) không phát sinh ở trong tâm. Hành giả có thể an hưởng sự an lạc của các bậc thiền, và có thể luyện pháp thần thông. Các bậc thiền hữu sắc cho quả tái sinh cõi trời sắc giới phạm thiên. Các bậc thiền vô sắc cho quả tái sinh cõi trời vô sắc giới. Các bậc thiền còn có thể làm nền tảng, làm đối tượng cho pháp hành thiền tuệ. * Pháp hành tuệ là gì? Pháp hành tuệ đó là pháp hành thiền tuệ. Hành giả muốn tiến hành thiền tuệ, điều đầu tiên, cần phải học hiểu rõ kỹ càng tất cả các đối tượng thiền tuệ là thân, thọ, tâm, pháp hay danh pháp, sắc pháp. Khi hành giả tiến hành thiền tuệ có đối tượng thiền tuệ, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngãcủa danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quảvà Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não loại vi tế (anusayakilesa), mọi tham ái, trở thành bậc Thánh Arahán, sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Pháp thành Phật giáo (Paṭivedhasāsana) Pháp thành Phật giáo là gì? Pháp thành Phật giáo là kết quả của pháp hành Phật giáo trực tiếp là pháp hành thiền tuệ. Pháp thành Phật giáo đó là 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn là 9 pháp Siêu tam giới. 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả liên quan nhân quả tương xứng với nhau, Thánh Đạo nào sinh liền cho quả Thánh Quả ấy từng đôi, từng cặp như sau:
Niết Bàn chỉ là đối tượng của 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm mà thôi. 4 Thánh Đạo Tâm - 4 Thánh Quả Tâm và Niết Bàn là 9 pháp Siêu tam giới. Sự liên quan giữa pháp học, pháp hành, pháp thành Pháp học là nhân - Pháp hành là quả. Sự liên quan giữa pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp thành Phật giáo là sự liên quan theo định luật nhân - quả. Cho nên, khi pháp này tăng trưởng, thì pháp kia cũng tăng trưởng, hoặc do pháp kia tăng trưởng, nên pháp này cũng tăng trưởng. Ngược lại, khi pháp này suy đồi, khiến pháp kia cũng suy đồi, hoặc do pháp kia suy đồi, nên pháp này cũng suy đồi. -ooOoo-
PHẬT GIÁO SUY ĐỒI Phật giáo đó là lời giáo huấn của Đức Phật vô cùng cao siêu, vô cùng vi tế. Cho nên, các hàng Phật tử là bậc xuất gia cũng như hàng tại gia cư sĩ giữ gìn, duy trì cho được trọn vẹn không phải là điều dễ dàng. Bởi vì, Phật giáo được giữ gìn duy trì bằng trí tuệ ba-la-mật, không phải bằng cách nào khác; mà trí tuệ ba-la-mậtcàng ngày càng bị giảm dần, giảm dần theo thời gian. Do đó, Phật giáo cũng bị mai một, bị giảm dần, giảm dần theo thời gian theo tuổi thọ 5.000 năm của Phật giáo. Phật giáo phát triển theo thời gian, rồi lại bị mai một cũng theo thời gian; bởi vì, các hàng Phật tử không đủ khả năng trí tuệ ba-la-mật, để giữ gìn duy trì Phật giáo vô cùng cao siêu, vô cùng vi tế. Đó là nguyên nhân chính làm cho Phật giáo bị mai một dần theo thời gian. Trong Chú giải Chi Bộ Kinh phần ekakanipāta, giải thích về Phật giáo suy đồi như sau: - Pháp thành Phật giáo suy đồi (Adhigama antaradhāna). Pháp thành Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp học Phật giáo cả 3 loại Phật giáo này thuộc về danh pháp, không phải sắc pháp; nên Phật giáo suy đồi không phải do lửa thiêu hủy, cũng không phải nước lũ cuốn trôi, cũng không phải do bão tàn phá, mà Phật giáo suy đồi do bởi các hàng Phật tử là các bậc xuất gia, các hàng tại gia càng ngày càng kém pháp hạnh ba-la-mật, nhất là trí tuệ ba-la-mật, nên ngày càng kém đức tin, kém trí nhớ, kém trí tuệ. Đó là nguyên nhân làm cho pháp thành Phật giáo ngày càng suy đồi, pháp hành Phật giáo ngày càng suy đồi, pháp học Phật giáo ngày càng suy đồi. Cả ba loại Phật giáo này có sự liên quan trực tiếp định luật nhân-quả với nhau. Sở dĩ pháp thành Phật giáo càng ngày càng suy đồi, là do pháp hành Phật giáo càng ngày càng suy đồi. Pháp hành Phật giáo càng ngày càng suy đồi, là do pháp học Phật giáo càng ngày càng suy đồi. Phật giáo dần dần bị suy đồi theo thời gian tuổi thọ 5.000 năm của Phật giáo. Pháp thành Phật giáo suy đồi như thế nào? Theo Chú giải Chi Bộ Kinh phần ekakanipāta trình bày Pháp thành Phật giáo bị suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm như sau: - Một ngàn năm thứ nhất: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích (Catupaṭisambhidā). - Một ngàn năm thứ nhì: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Lục thông (Chaḷābhiññā). - Một ngàn năm thứ ba: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tam Minh (Tevijja). - Một ngàn năm thứ tư: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán chỉ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não (sukkhavipassaka) mà thôi. - Một ngàn năm thứ năm: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Nhập Lưu và cuối cùng không còn ai có khả năng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu trên cõi người này nữa. Tuy vậy, những bậc Thánh Nhân còn có sinh mạng trong cõi người này, thì pháp thành Phật giáo vẫn chưa hoàn toàn bị tiêu hoại. Cho đến khi nào những bậc Thánh Nhân mãn kiếp, hết tuổi thọ, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời. Khi ấy, trong cõi người hoàn toàn không còn bậc Thánh Nhân nào. Đó là lúc pháp thành Phật giáo suy đồi hoàn toàn không còn trong cõi người này nữa. Trong Chú giải bài kinh Gotamīsuttavaṇṇanā [15] có đoạn giải thích pháp thành Phật giáo suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm như sau: - Một ngàn năm thứ nhất: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, Tam Minh. - Một ngàn năm thứ nhì: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán chỉ diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não mà thôi. - Một ngàn năm thứ ba: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Bất Lai. - Một ngàn năm thứ tư: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Nhất Lai. - Một ngàn năm thứ năm: Hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Nhập Lưu, và cuối cùng không còn bậc Thánh Nhân nào trong cõi người này nữa. Đó là lúc pháp thành Phật giáo bị suy đồi hoàn toàn. Pháp hành Phật giáo suy đồi như thế nào? * Pháp hành thiền tuệ suy đồi: Thời gian đầu Phật giáo, hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc các bậc Thánh, càng ngày càng tăng trưởng. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, hành giả tiến hành thiền tuệ còn có khả năng chứng đắc đến bậc Thánh Arahán. Về sau trải qua thời gian theo tuần tự, hành giả tiến hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc các bậc Thánh bậc thấp dần, theo tuần tự thời gian từ bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Nhập Lưu; đến thời kỳ gần mãn tuổi thọ của Phật giáo, hành giả tiến hành thiền tuệ không đúng theo pháp hành Trung Đạo và cuối cùng không còn hành giả tiến hành thiền tuệ nữa. Đó là thời kỳ pháp hành thiền tuệ bị suy đồi trong cõi người. * Pháp hành thiền định suy đồi: Cũng như pháp hành thiền tuệ, thời kỳ đầu Phật giáo, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, ngày càng tăng trưởng. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc giảm dần từ các bậc thiền vô sắc đến các bậc thiền hữu sắc. Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc các bậc thiền bị giảm xuống theo tuần tự từ bậc thiền cao xuống dần bậc thiền thấp, cho đến thời kỳ hành giả tiến hành thiền định không đúng theo phương pháp và cuối cùng không còn hành giả tiến hành thiền định nữa. Đó là thời kỳ pháp hành thiền định bị suy đồi trong cõi người. * Pháp hành giới suy đồi: Cũng như pháp hành thiền tuệ và pháp hành thiền định, thời kỳ đầu Phật giáo, hành giả giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn hoàn toàn. Sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, chư Tỳ khưu có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, nên hết lòng tôn kính tất cả mọi điều giới mà Đức Phật đã chế định, ban hành cho Tỳ khưu, Tỳ khưu ni. Chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nghiêm chỉnh giữ gìn mọi điều giới của mình được trong sạch trọn vẹn, để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Về sau, trải qua thời gian theo tuần tự, chư Tỳ khưu, Tỳ khưu ni càng ngày càng giảm dần đức tin, xem thường những điều giới nhẹ, nên phạm giới dubbhāsita āpati (ác khẩu), phạm giới dukkaṭa āpati (tác ác), và dần dần tiếp theo phạm giới pācittiya āpati (ưng đối trị), phạm giới thullaccaya āpati (giới trọng) các loại giới này còn thuộc về loại giới nhẹ. Từ đó về sau, thời gian theo tuần tự Tỳ khưu, Tỳ khưu ni phạm giới nặng, như phạm giớiSaṃghādisesa āpati (Tăng tàn) song vẫn còn giữ phạm hạnh Tỳ khưu, Tỳ khưu ni; cho đến khi Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nào phạm giới pārājika āpati (bất cộng trụ). Khi ấy, Tỳ khưu, Tỳ khưu ni ấy không còn phạm hạnh Tỳ khưu, Tỳ khưu ni nữa. Thời gian khoảng 500 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, Tỳ khưu ni không còn nữa, chỉ còn có Tỳ khưu, theo tuần tự thời gian đến khi gần mãn tuổi thọ Phật giáo 5.000 năm; Tỳ khưu càng ngày càng kém đức tin, nên giữ gìn giới hạnh của mình không còn trong sạch, cho đến khi không còn hành giới nữa. Đó là thời kỳ pháp hành giới bị suy đồi và cũng là thời kỳ pháp hành Phật giáo bị suy đồi trong cõi người. Pháp học Phật giáo suy đồi như thế nào? Pháp học Phật giáo đó là học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, lời giáo huấn của Đức Phật. Pháp học Phật giáo là nhân, pháp hành Phật giáo là quả, nhân và quả đi đôi với nhau. Sở dĩ, pháp hành Phật giáo bị suy đồi tuần tự theo thời gian 5.000 năm tuổi thọ của Phật giáo, là vì pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi theo thời gian ấy. Ban đầu, chư Đại Trưởng Lão giữ gìn duy trì Tam Tạng và Chú giải Pāḷi, pháp học Phật giáo đầy đủ y theo bổn chánh qua các kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi. Về sau, tuần tự theo thời gian chư Đại đức càng ngày càng kém đức tin, kém pháp hạnh ba-la-mật, kém trí nhớ, trí tuệ, nên không đủ khả năng thông thuộc Tam Tạng và Chú giải Pāḷi. Đó là nguyên nhân làm cho pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi tuần tự theo thời gian như sau: Trước tiên, Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakapāḷi) bị mai một, bị suy đồi. Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 7 bộ lớn: - Dhammasaṅganīpāḷi (bộ Pháp Tụ Hội) Trong 7 bộ này, đầu tiên bộ Paṭṭhānapāḷi (bộ Pháp Duyên Hệ), là bộ lớn nhất, vi tế sâu sắc nhất bị mai một trước, tiếp theo bộ Yamakapāḷi (bộ Pháp Song Đối), tuần tự bộ Kathāvatthupāḷi (bộ Pháp Luận Đề), bộ Puggalapaññattipāḷi (bộ Nhân Chế Định), bộ Dhātukathāpāḷi (bộ Pháp Phân Loại), bộ Vibhaṅgapāḷi (bộ Pháp Phân Tích), cuối cùng bộ Dhammasaṅganīpāḷi (bộ Pháp Tụ Hội). Tạng Vi Diệu Pháp bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn còn Tạng Kinh và Tạng Luật là pháp học Phật giáo vẫn còn tồn tại. Tiếp theo Tạng Kinh (Suttantapiṭakapāḷi) bị mai một, bị suy đồi. Tạng Kinh có 5 bộ lớn: - Dīghanikāyapāḷi (Trường Bộ Kinh) Trong 5 bộ này, đầu tiên Aṅguttaranikāyapāḷi (Chi Bộ Kinh) bị mai một trước. Chi Bộ Kinh gồm có 11 phần, gồm những bài kinh (bài pháp) 1 chi, 2 chi v.v... cho đến những bài kinh có 11 chi. Đầu tiên, những bài kinh có 11 chi bị mai một trước, tiếp theo những bài kinh có 10 chi và tuần tự những bài kinh có 9 chi, có 8 chi, có 7 chi, có 6 chi, có 5 chi, có 4 chi, có 3 chi, có 2 chi, cuối cùng những bài pháp 1 chi bị mai một hoàn toàn. Chi Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn. Tiếp theo Saṃyuttanikāyapāḷi (Đồng Loại Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi. Đồng loại Bộ Kinh có 5 phần: - Sagāthavaggasamyuttapāḷi Trong 5 phần này, đầu tiên phần Mahāvaggasamyuttapāḷi bị mai một trước, tiếp theo phầnSāḷāyatanasamyuttapāḷi, tuần tự phần Khaṇdhavaggasamyuttapāḷi, phần Nidānavaggasamyuttapāḷi, và cuối cùng phần Sagāthavaggasamyuttapāḷi, bị mai một hoàn toàn. Đồng Loại Bộ Kinh bị suy đồi, bị mai một hoàn toàn. Tiếp theo Majjhimanikāyapāḷi (Trung Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi. Trung Bộ Kinh có 3 phần: - Mūlapaṇṇāsapāḷi Trong 3 phần này, đầu tiên phần Uparipaṇṇāsapāḷi bị mai một trước, tiếp theo phần Majjhimapaṇṇāsapāḷivà cuối cùng phần Mūlapaṇṇāsapāḷi bị mai một hoàn toàn. Trung Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn. Tiếp theo Dīghanikāyapāḷi (Trường Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi. Trường Bộ Kinh có 3 phần: - Sīlakkhandhavaggapāḷi Trong 3 phần này, đầu tiên phần Pāthikavaggapāḷi. bị mai một, bị suy đồi, tiếp đến phần Mahāvaggapāḷi và cuối cùng phần Sīlakkhandhavaggapāḷi bị mai một hoàn toàn. Trường Bộ Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn. Tiếp theo Khuddakanikāyapāḷi (Tiểu Bộ Kinh) bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn. Cuối cùng Tạng Kinh bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn, còn Tạng Luật là pháp học Phật giáo vẫn tồn tại. Tạng Luật (Vinayapitākapāḷi) bị mai một, bị suy đồi. Tạng Luật có 5 bộ: - Bộ Pārājikapāḷi Trong Tạng Luật có 5 bộ, đầu tiên bộ Parivārapāḷi bị mai một trước, tiếp theo bộ Cūḷavaggapāḷi tuần tự đến bộ Mahāvaggapāḷi, bộ Pācittiyapāḷi và cuối cùng bộ Pārājikapāḷi bị mai một, song chỉ còn Uposathakkhan-dhaka là pháp học Phật giáo vẫn chưa bị mai một. Về sau, Uposathakkhandhaka bị mai một,cuối cùng không còn một ai thuộc lòng được bài kệ gồm có 4 câu. Khi ấy, pháp học Phật giáo bị mai một, bị suy đồi hoàn toàn. Tóm lại, pháp học Phật giáo, pháp hành Phật giáo, pháp thành Phật giáo trong 3 loại Phật giáo này, pháp học Phật giáo là nguồn gốc, là nền tảng căn bản của pháp hành và pháp thành Phật giáo. Thật vậy, nếu học pháp học hiểu biết đúng đắn, kỹ càng, thì khi hành pháp hành mới đúng đắn được; nếu hành pháp hành đúng, thì pháp thành mới phát sinh, dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Ngược lại, nếu học pháp học mà hiểu sai, thì khi hành pháp hành sai, nếu hành pháp hành sai, thì pháp thành không phát sinh, không thể giải thoát khổ sinh, mà vẫn tiếp tục chịu khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Pháp học Phật giáo gồm có Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lời giáo huấn của Đức Phật. Tam Tạng: Tạng Luật, Tạng Kinh, Tạng Vi Diệu Pháp; trong 3 tạng ấy Tạng Luật là nền tảng căn bản của Phật giáo, cũng là tuổi thọ của Phật giáo. Thật vậy, dù Tạng Vi Diệu Pháp và Tạng Kinh bị mai một hoàn toàn, chỉ còn có Tạng Luật, Phật giáo vẫn còn tồn tại. Trong Tạng Luật phần Uposathakkhandhaka liên quan đến hành Tăng sự, Uposatha tụng đọc, Bhikkhupāṭīmokkha tụng điều giới của Tỳ khưu... là quan trọng. Chư Tỳ khưu còn hành tăng sự, còn tụng đọc Bhikkhupāṭimokkhisīla hằng tháng vào ngày rằm và ngày cuối tháng, là Phật giáo vẫn còn tồn tại trên cõi người này. Trong kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần thứ nhất, phần đầu Nidāna dạy rằng: Vinayo nāma Buddhasāsanassa āyu Tạng Luật là tuổi thọ Phật giáo -ooOoo- [1] Chú giải Aṅyuttaranikāya, phần Ekaka nipātaṭṭhakathāvaṇṇanā. [2] Aṅguttaranikāya, aṭṭhanipāta, kinh Pahāradasutta. [3] Dhammapadagāthā số 153, 154. [4] Phiền não có tất cả 1.500 loại. [5] Tham ái có tất cả 108 loại. [6] Dīghanikāyā, Mahāvagga, kinh Mahāparinibhānasutta. [7] Bộ Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh Mahāparinibbānasuttavaṇṇnā. [8] Bộ Visuddhimagga, phần Silaniddesa. [9] Thời gian 3 tháng hạ ở cõi người so với ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên khoảng 3 phút 36 giây, bởi vì một ngày một đêm cõi trời Tam Thập Tam Thiên bằng 100 năm ở cõi người. [10] Tam minh: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. [11] Bát thiền: 4 bậc thiền hữu sắc, và 4 bậc thiền vô sắc. [12] Lục thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông, lậu tận thông. [13] Tứ Tuệ Phân Tích: Nghĩa phân tích, Pháp phân tích, Ngôn ngữ phân tích, Tuệ ứng đối phân tích. [14] Bộ Theragāthā. [15] Chú giải Chi Bộ Kinh, phần Aṭṭhakanipāta, kinh Gotamīsuttavaṇṇanā. [16] Bộ Pārājikakaṇda aṭṭhakalhā, Bāhiranidānakathā <span" style="font-style: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; orphans: auto; text-align: start; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: auto; word-spacing: 0px; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration: none; caret-color: rgb(0, 0, 0); color: rgb(0, 0, 0);"> -ooOoo- </span"> from https://theravada.vn/chuong-i-e-phat-giao-buddhasasana/ CHƯƠNG I (d) ĐỨC PHÁP Đức Pháp dịch từ danh từ Pāḷi Dhamma ở đây có nghĩa là Chánh Pháp (Saddhamma) mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, hoàn hảo phần giữa, hoàn hảo phần cuối, đầy đủ ý nghĩa, văn chương trong sáng thanh tịnh. Chánh pháp có 10 pháp là: - Pháp học (Pariyattidhamma). - 9 pháp Siêu tam giới (Navalokuttaradhamma). PHÁP HỌC CHÁNH PHÁP Là lời giáo huấn của Đức Phật gồm có Tam Tạng và Chú giải bằng tiếng Pāḷi.
CHUYỂN PHÁP LUÂN ĐẦU TIÊN Vào ngày rằm tháng tư, Đức Phật xuất hiện trên thế gian, Đức Pháp cũng xuất hiện cùng một lúc ấy. Bởi vì, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác là do chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Chánh Pháp, đó là chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn đầu tiên trên toàn cõi thế giới chúng sinh (Đức Tăng chưa xuất hiện). Lần đầu tiên Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacak-kappavattanasutta) vào ngày rằm tháng sáu, để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu, tại vườn phóng sinh nai tên gọi Isipatana gần kinh thành Bārāṇasi. Khi đó là lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng vừa ló dạng hướng Đông. Lần đầu tiên, Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này. Bài kinh Chuyển Pháp Luân Phần I: Ý nghĩa Kệ khai kinh Chuyển Pháp Luân “Bhikkhūnaṃ pañcavaggīnam...” Phần II: Ý nghĩa bài kinh Chuyển Pháp Luân “Evam me sutam...”. Lời Đại đức Ānanda bạch với Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa: Kính bạch Đại đức Trưởng Lão Mahākassapa khả kính: Con là Ānanda được nghe bài kinh Chuyển Pháp Luân từ Đức Thế Tôn như vầy: Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai, gọi là Isipatana, trước kia Chư Phật Độc Giác thường ngự xuống. Tại đây, Đức Thế Tôn gọi nhóm 5 Tỳ khưu là Ngài Kondanna, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji mà dạy rằng: Hai pháp thấp hèn (Dve antā) - Này chư Tỳ khưu, có 2 pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà người xuất gia không nên hành theo, hai pháp ấy như thế nào? Một là việc thường thụ hưởng khoái lạc trong ngũ dục do tâm tham ái hợp với thường kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm nhân trong đời; không phải là pháp hành của bậc Thánh Nhân, không đem lại lợi ích an lạc nào. Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình do tâm sân và có đoạn kiến, thuộc pháp hành khổ hạnh của ngoại đạo; không phải là pháp hành của bậc Thánh Nhân, không đem lại lợi ích an lạc nào. Pháp hành Trung Đạo (Majjhimāpatipadā) - Này chư Tỳ khưu, không thiên về hai biên kiến ấy, Như Lai đã hành theo pháp hành Trung Đạo, nên đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế bằng trí tuệ Siêu tam giới, làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ Siêu tam giới phát sinh, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là pháp hành Trung Đạo mà Như Lai đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế (bằng trí tuệ Siêu tam giới), làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ Siêu tam giới phát sinh chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Này chư Tỳ khưu, pháp hành Trung Đạo đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này chư Tỳ khưu, nhờ pháp hành Trung Đạo là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này, mà Như Lai đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế (bằng trí tuệ Siêu tam giới), làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, đã làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ Siêu tam giới phát sinh chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn. TỨ THÁNH ĐẾ 1- Khổ Thánh Đế (Dukkha ariyasacca) - Này chư Tỳ khưu, Khổ Thánh Đế là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ đó là: Tái sinh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ. Tóm lại, ngũ uẩn là đối tượng của chấp thủ do tâm tham ái và tà kiến là khổ. 2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Dukkhasamudaya ariyasacca) - Này chư Tỳ khưu, Nhân sinh Khổ Thánh Đế là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ đó là: Tham ái là nhân dắt dẫn tái sinh, hợp với tham muốn, hài lòng, say mê trong các đối tượng, đắm đuối trong kiếp sống, Nhân sinh Khổ Thánh Đế ấy là: Dục ái (kāmatanhā: Tham ái trong 6 cảnh trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp). 3- Diệt khổ Thánh Đế (Dukkhanirodha ariyasacca) - Này chư Tỳ khưu, Diệt Khổ Thánh Đế là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ đó là: Niết Bàn là pháp diệt đoạn tuyệt mọi dục vọng do tâm tham ái ấy không còn dư sót bằng Thánh Đạo Tuệ, xả ly ngũ uẩn, từ bỏ ngũ uẩn; giải thoát khổ, không còn luyến ái dính mắc. 4- Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Dukkhanirodhagaminīpatipadā ariyasacca) - Này chư Tỳ khưu, pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, diệt Khổ Thánh Đế là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ đó là: Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế Tam Tuệ Luân trong Khổ Thánh Đế 1- Trí tuệ học biết Khổ Thánh Đế (Saccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn (cakkhu) thấy rõ Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ (nāna) thấy rõ thực tánh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt (pannā) thấy rõ khổ sanh, khổ già... đã phát sinh, tuệ minh (vijjā) thấy rõ, thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ (āloka) diệt màn vô minh che án Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) trong tam giới, ngoại trừ tâm tham ái ra, đều là Khổ Thánh Đế. 2- Trí tuệ hành biết Khổ Thánh Đế (Kiccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên biết rõ bằng Thánh Đạo Tuệ. 3- Trí tuệ thành biết Khổ Thánh Đế (Katanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh tất cả các pháp (danh pháp, sắc pháp) Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên biết, thì đã được biết rõ bằng Thánh Đạo Tuệ rồi. Tam Tuệ Luân trong Nhân sinh Khổ Thánh Đế 1- Trí tuệ học biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Saccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn thấy rõ tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ thực tánh ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Nhân sinh Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh ba loại tham ái ấy là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, hay Tập Thánh Đế. 2- Trí tuệ hành biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Kiccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên diệt đoạn tuyệt bằng Thánh Đạo Tuệ. 3- Trí tuệ thành biết Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Katanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Nhân sinh Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh ba loại tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên diệt, thì đã được diệt đoạn tuyệt bằng Thánh Đạo Tuệ rồi. Tam Tuệ Luân trong Diệt Khổ Thánh Đế 1- Trí tuệ học biết Diệt Khổ Thánh Đế (Saccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn thấy rõ Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tánh mỗi loại Niết Bàn đã phát sinh; tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh Niết Bàn là pháp Diệt Khổ Thánh Đế, hay Diệt Thánh Đế. 2- Trí tuệ hành biết trong Diệt Khổ Thánh Đế (Kiccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ. 3- Trí tuệ thành biết Diệt Khổ Thánh Đế (Katanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi pháp Diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên chứng ngộ, thì đã được chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ rồi. Tam Tuệ Luân trong Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế 1- Trí tuệ học biết pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Saccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn thấy rõ Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, trí tuệ sáng suốt thấy rõ thực tánh của chánh kiến... đã phát sinh, tuệ minh thấy rõ, thấu suốt Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh, ánh sáng trí tuệ diệt màn vô minh che án Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn), diệt Khổ Thánh Đế, hay ĐạoThánh Đế. 2- Trí tuệ hành biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Kiccanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn), diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên tiến hành để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế. 3- Trí tuệ thành biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Katanāna) - Này chư Tỳ khưu, tuệ nhãn... đã phát sinh, trí tuệ thiền tuệ..., trí tuệ sáng suốt..., tuệ minh, ... ánh sáng trí tuệ... đã phát sinh đến với Như Lai, trong mọi Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng: Thực tánh Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh là pháp hành (dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn), diệt Khổ Thánh Đế ấy là pháp nên tiến hành, thì đã được tiến hành, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi. Vai trò quan trọng của Tam Tuệ Luân - Này chư Tỳ khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân (trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành), thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh chưa phát sinh đến với Như Lai. Này chư Tỳ khưu, khi ấy Như Lai chưa dám truyền dạy rằng Như Lai chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh: nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy. Này chư Tỳ khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, thành 12 loại trí tuệ hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh đã phát sinh đến với Như Lai. Này chư Tỳ khưu, khi ấy, Như Lai khẳng định truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng, trong toàn thế giới chúng sinh: Nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy. Trí tuệ quán xét (paccavekkhananāna) Trí tuệ quán xét đã phát sinh đến với Như Lai, biết rõ rằng: Arahán Thánh Quả Tuệ giải thoát của Như Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp này, chắc chắn không còn tái sinh kiếp nào nữa. Đại đức Kondanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 Tỳ khưu vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Ngài. Trong khi bài pháp văn xuôi đang được thuyết giảng, thì Đại đức Kondanna đã phát sinh pháp nhãn chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ, tâm không còn ô nhiễm bởi phiền não, tà kiến, hoài nghi nữa; Ngài biết rõ ràng, chắc chắn rằng: “Tất cả các pháp nào trong tam giới có trạng thái sinh, thì tất cả pháp ấy đều có trạng thái diệt”. Toàn thể chư thiên, phạm thiên tán dương, ca tụng Khi Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Chuyển Pháp Luân vừa xong, chư thiên trên địa cầu đồng thanh tán dương ca tụng rằng: Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân vô thượng tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần thành Barānasī, chưa từng có Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể Chuyển Pháp Luân như vậy được. Đồng thời, chư thiên ở cõi Tứ Đại Thiên Vương được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên địa cầu, cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên. Cũng như vậy, chư thiên trong cõi Tam Thập Tam Thiên, cõi Dạ Ma Thiên, cõi Đẩu Suất Đà Thiên, cõi Hóa Lạc Thiên, cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên. Phạm thiên ở cõi trời sắc giới được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên trong cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên, cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng: “Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân vô thượng tại khu rừng phóng sanh nai gọi là Isipatana, gần thành Barānasī, chưa tùng có Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên hay bất cứ một ai trong đời này có thể Chuyển Pháp Luân như vậy được”. Ngay khi ấy, ngay lúc ấy, ngay sát- na ấy, lời tán dương ca tụng lên đến cõi sắc giới phạm thiên cao nhất là “Sắc cứu cánh thiên” (Akanitthā), mười ngàn thế giới này đều rung chuyển, rúng động, rung rinh, ánh sáng hào quang của Đức Chánh Đẳng Giác tỏa rộng vô biên cùng khắp thế giới, hơn hẳn oai lực chư thiên, phạm thiên cả thảy. Đại đức Kondanna có tên Annasikondanna Khi Đại đức Kondanna chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, Đức Thế Tôn hoan hỷ tự thốt lên cho toàn thế giới biết rằng: - Này chư vị, quả thật Kondanna đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi! Này chư vị, quả thật Kondanna đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế rồi! Do vậy, Đại đức Kondanna được gọi là Annasikondanna (Đại đức Kondanna đã chứng ngộ). Đại đức Annasikondanna xin thọ Tỳ khưu Khi ấy, Đại đức Annasikondanna đã phát sinh trí tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, đã đạt đến chân lý Tứ Thánh Đế, đã biết rõ đúng theo chân lý Tứ Thánh Đế, đã thấu rõ, thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, nên đã diệt đoạn tuyệt hoàn toàn mọi điều hoài nghi nơi Đức Phật, Đức Pháp,... không còn hoài nghi nào nữa, với trí tuệ thiền tuệ của mình đã chứng ngộ đúng theo lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, nên không còn tin nơi người nào khác nữa. Đại đức Annasikondanna thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn cao thượng, con xin nương nhờ nơi Ngài, kính xin Ngài cho phép con được thọ Sa di và Tỳ khưu. Đức Thế Tôn từ bi đưa ngón tay trỏ chỉ và truyền dạy: “Ehi bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyam sammā dukkhassa antakiriyāya”. “Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân hồi”. Đức Thế Tôn chỉ thuyết dạy như vậy, Đại đức Annasikondanna đã trở thành Tỳ khưu (Xuất gia trở thành Tỳ khưu theo cách gọi Ehi bhikkhū!). (Xong bài kinh Chuyển Pháp Luân) * Trong khi lắng nghe Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, nhóm 5 Tỳ khưu chỉ có Ngài Đại đức Koṇḍanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, cùng với 180 triệu chư thiên, phạm thiên cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn tùy theo pháp hạnh ba-la-mật của mỗi vị. Sau khi đã trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, Ngài Đại đức Koṇḍanna được Đức Phật cho phép thọ Sadi, Tỳ khưu. Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā. Đức Phật đưa bàn tay phải, chỉ bằng ngón trỏ về phía Ngài Koṇḍanna dạy rằng: “Ehi Bhikkhu! Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya.” Nghĩa: “Con hãy đến với Như Lai! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện! Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng, hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt sự khổ tử sinh luân hồi”. Thật kỳ diệu thay! Khi Đức Phật vừa chấm dứt câu, ngay khi ấy, hình tướng cũ Đạo sĩ của Ngài Đại đức Koṇḍanna biến mất, thay vào tăng tướng mới, đạo mạo một Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Samôn[2] thành tựu do phước thần thông của Ngài. Vị Tỳ khưu có tăng tướng trang nghiêm, lục căn thanh tịnh như một vị Tỳ khưu có 60 hạ. TAM BẢO TRỌN VẸN XUẤT HIỆN Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân lần đầu tiên vào ngày rằm tháng sáu. Ngài Đại đức Koṇḍanna chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Đức Phật cho phép Ngài xuất gia thọ Tỳ khưu đầu tiên. Ngay khi ấy, Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo trọn vẹn đầu tiên xuất hiện trên thế gian. Trong nhóm 5 Tỳ khưu, Ngài Koṇḍanna trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, còn lại 4 vị Tỳ khưu khác, Đức Phật còn phải dạy dỗ. Sáng ngày 16 tháng 6, Đức Phật không ngự đi khất thực, ở lại trong khu rừng để dạy dỗ Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya, còn 3 vị Tỳ khưu: Ngài Koṇḍanna, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji đi khất thực, đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại phân chia đều cho 5 Tỳ khưu độ trong ngày. Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu cũng theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā. Ngày 17 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Bhaddiya và Ngài Mahānāma, còn Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa và Ngài Assaji đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 Tỳ khưu. Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā. Ngày 18 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Mahānāma và Ngài Assaji, còn Ngài Koṇḍanna, Ngài Vappa và Ngài Bhaddiya đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần vật thực còn lại chia đều cho 5 vị Tỳ khưu. Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā. Ngày 19 tháng 6, Đức Phật dạy dỗ Ngài Assaji, còn 4 vị Tỳ khưu đi khất thực đem về dâng vật thực đến Đức Phật, phần còn lại chia đều đến 5 vị Tỳ khưu. Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji trở thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu theo cách Ehi-bhikkhūpasampadā. Như vậy nhóm 5 Tỳ khưu đều trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo. Muốn nâng đỡ nhóm 5 Tỳ khưu lên bậc Thánh Arahán, ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta). Thật vậy, sau khi nghe Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng xong, nhóm 5 Tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng trong Phật giáo, diệt đoạn tuyệt hoàn toàn mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót. Như vậy, Đức Phật có 5 vị Thánh Arahán đã xuất hiện trên thế gian này. Tóm lược cốt yếu bài kinh Chuyển Pháp Luân Tứ Thánh Đế là 4 sự thật chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ đó là: 1- Khổ Thánh Đế đó là danh pháp [3] , sắc pháp [4] trong tam giới đều là khổ, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ. 2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái là nhân sinh Khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Tập Thánh Đế. 3- Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn là pháp diệt khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Diệt Thánh Đế. 4- Pháp hành Diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế, là chân lý mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ, hay gọi tắt là Đạo Thánh Đế. Tứ Thánh Đế này là nền tảng căn bản, là cốt lõi quan trọng trong giáo pháp của Chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai. Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, có một đoạn mà Đức Thế Tôn khẳng định truyền dạy trong toàn cõi thế giới chúng sinh rằng: “Yato ca kho me bhikkhave imesu catūsu ariyasaccesu evam tiparivattam dvādasākāram yathā bhūtam nānadassanam suvisuddham ahosi. Athāham bhikkhave sadevake loke samārake sabrahmake sassamanabrāhmaniyā pajāya devamanussāya “anuttaram sammāsambodhim abhisambuddho” ti paccannāsim...” [5] . - Này chư Tỳ khưu, khi nào trí tuệ thiền tuệ đã thấy rõ, biết rõ đúng thực tánh của Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân thành 12 loại trí tuệ trong sáng thanh tịnh, đã phát sinh đến với Như Lai. Này chư Tỳ khưu, khi ấy Như Lai khẳng định truyền dạy rằng: Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh: Nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma Vương và phạm thiên cả thảy. Như vậy, Đức Thế Tôn có danh hiệu “Sammāsambuddha” vì chính Ngài tự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân là: - Trí tuệ học (saccanāna) trong Tứ Thánh Đế. Ba loại trí tuệ trong Tứ Thánh Đế (3 x 4) thành 12 loại trí tuệ, mà Đức Phật đã chứng đạt một cách hoàn toàn trong sáng thanh tịnh, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddho). Đối với hàng Phật tử là bậc xuất gia Sa di, Tỳ khưu, cũng như hàng tại gia cư sĩ là cận sự nam, cận sự nữ, cùng tất cả chư thiên, phạm thiên có nguyện vọng trở thành bậc Thánh Nhân, cũng phải hành theo con đường duy nhất mà Đức Phật đã tiến hành. Đó là: Pháp hành trung đạo để dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, pháp giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Tìm hiểu rõ ý nghĩa Tứ Thánh Đế Trong bộ Thanh Tịnh Đạo giảng giải 16 ý nghĩa của Tứ Thánh Đế như sau: 1- Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới là sự thật chân lý Khổ Thánh Đế có 4 ý nghĩa thực chất của khổ là: Thực chất của khổ luôn luôn hành hạ. 2- Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tâm tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế có 4 ý nghĩa thực chất của tham ái là: Thực chất của tham ái là Nhân sinh khổ. 3- Diệt Thánh Đế đó là Niết Bàn là pháp diệt Khổ Thánh Đế, có 4 ý nghĩa thực chất của Niết Bàn là: Thực chất của Niết Bàn giải thoát mọi cảnh Khổ Thánh Đế. 4- Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, có 4 ý nghĩa thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo là: Thực chất của pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi. Tất cả 16 ý nghĩa thực chất của Tứ Thánh Đế này đồng thành tựu phận sự cùng một lúc ở trong Thánh Đạo Tâm, không trước không sau. Tam Tuệ Luân (Tiparivatta) Tam Tuệ Luân là 3 bậc trí tuệ luân chuyển theo Tứ Thánh Đế như sau: Saccanāna: Trí tuệ học Tứ Thánh Đế. 1- Trí tuệ học biết Tứ Thánh Đế 1.1 Trí tuệ học biết Khổ Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Khổ Thánh Đế. Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ. * Ngũ uẩn chấp thủ là: Sắc uẩn chấp thủ: Sắc uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ. Thọ uẩn chấp thủ: Thọ uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ. Tưởng uẩn chấp thủ: Tưởng uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ. Hành uẩn chấp thủ: Hành uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ. Thức uẩn chấp thủ: Thức uẩn là đối tượng của tà kiến và tham ái chấp thủ. * Danh pháp, sắc pháp trong tam giới là: - Danh pháp đó là tâm và tâm sở trong tam giới. Tâm tam giới, có 81 tâm (không có 8 hay 40 tâm Siêu tam giới, vì không phải Khổ Thánh Đế): Tâm dục giới có 54 tâm. Tâm sở, có 51 tâm sở (không có tâm sở tham, vì tâm sở tham thuộc Tập Thánh Đế). - Sắc pháp chỉ có trong dục giới và sắc giới, không có trong vô sắc giới gồm có tất cả 28 sắc pháp. [6] Như vậy, danh pháp, sắc pháp trong tam giới gồm có 81 tâm tam giới + 51 tâm sở + 28 sắc pháp là Khổ Thánh Đế, là pháp mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ. 1.2 Trí tuệ học biết Nhân sinh khổ Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ chi pháp trong Nhân sinh khổ Thánh Đế. Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tâm sở tham (lobhacetasika) có tên gọi là tham ái (tanhā) là Nhân sinh Khổ Thánh Đế. Tham ái (tanhā): Có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại, 108 loại theo cách tính như sau: * Tham ái tính theo tính chất: Tính chất của tham ái có 3 loại: Kāmatanhā: Dục ái, tham ái trong 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) không hợp với tà kiến. Bhavatanhā: Hữu ái, tham ái trong 6 trần hợp với thường kiến (sassataditthi), hoặc tham ái trong cõi dục giới, cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc. Vibhavatanhā: Phi hữu ái, tham ái trong 6 trần hợp với đoạn kiến (ucchedaditthi). * Tham ái tính theo đối tượng có 6 loại: Tham ái phát sinh do nương nhờ 6 đối tượng như sau: Sắc ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng sắc trần. Thanh ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng thanh trần. Hương ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng hương trần. Vị ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng vị trần. Xúc ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng xúc trần. Pháp ái: Tham ái phát sinh do nương nhờ nơi đối tượng pháp trần. * Tham ái có 18 loại: Tính theo 3 tính chất tham ái nhân với 6 đối tượng của tham ái thành 18 loại tham ái. * Tham ái có 54 loại: Tính theo tham ái phát sinh trong 3 thời như sau: Thời quá khứ tham ái có 18 loại. * Tham ái có 108 loại: Tính theo tham ái phát sinh bên trong của mình và bên ngoài mình của người khác, và vật khác (có sinh mạng và không sinh mạng) như sau: Bên trong mình tham ái có 54 loại; bên ngoài mình tham ái có 54 loại. Tổng cộng tất cả bên trong và bên ngoài gồm có 108 loại tham ái. 108 loại tham ái đều là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà bậc Thánh Nhân đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ. Tâm tham ái không chỉ là nhân sinh khổ ở kiếp hiện tại, mà còn là nhân sinh khổ dẫn dắt tái sinh ở kiếp sau nữa. Hễ còn tâm tham ái, thì còn phải tái sinh kiếp sau, trong vòng tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài vô cùng, vô tận. 1.3 Trí tuệ học biết Diệt Khổ Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Diệt Khổ Thánh Đế. Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn, là pháp diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh Đế. * Niết Bàn có 2 loại theo Bậc Thánh Arahán: Hữu Dư Niết Bàn (Sa upādisesanibbāna): Niết Bàn đối với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, cũng gọi là Phiền Não Niết Bàn (Kilesaparinibbāna), song ngũ uẩn vẫn còn tồn tại cho đến hết tuổi thọ. Vô Dư Niết Bàn (Anupādisesanibbāna): Niết Bàn đối với bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót; đồng thời đến lúc hết tuổi thọ, ngũ uẩn tịch diệt Niết Bàn, cũng gọi là Ngũ Uẩn Niết Bàn (Khandhaparinibbāna), chấm dứt sự tử sinh luân hồi trong tam giới. * Niết Bàn có 3 loại theo đối tượng: Vô Tướng Niết Bàn (Amimittanibbāna): Niết Bàn đối với hành giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp có trạng thái vô thường hiện rõ hơn trạng thái khổ và trạng thái vô ngã, do tín pháp chủ có năng lực hơn 4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là“Vô Tướng Niết Bàn”: Niết Bàn không có hiện tượng pháp hành hữu vi. Vô Ái Niết Bàn (Appanihitanibbāna): Niết Bàn đối với hành giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp có trạng thái khổ hiện rõ hơn trạng thái vô thường và trạng thái vô ngã, do định pháp chủ có năng lực hơn 4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là“Vô Ái Niết Bàn”: Niết Bàn không có tham ái nương nhờ. Chơn Không Niết Bàn (Sunnatanibbāna): Niết Bàn đối với hành giả tiến hành thiền tuệ. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp có trạng thái vô ngã hiện rõ hơn trạng thái vô thường vàtrạng thái khổ, do tuệ pháp chủ có năng lực hơn 4 pháp chủ khác, dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn gọi là “Chơn Không Niết Bàn”: Niết Bàn hoàn toàn vô ngã, không phải Ta, không phải của Ta. Các loại Niết Bàn đều là Diệt Khổ Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ. 1.4 Trí tuệ học biết Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ các chi pháp trong Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế. Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế: Đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế. Bát Chánh Đạo: Chánh kiến: Trí tuệ chân chính là trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế: Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế và Đạo Thánh Đế. Chánh tư duy: Tư duy chân chính là tư duy thoát ra khỏi ngũ trần, tư duy không làm khổ mình khổ người, tư duy không làm hại mình hại người. Chánh ngữ: Nói lời chân chính là không nói dối, không nói lời chia rẽ, không nói lời thô tục chửi rủa mắng nhiếc, không nói lời vô ích. Chánh nghiệp: Hành nghiệp chân chính là không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm. Chánh mạng: Nuôi mạng chân chính là tránh xa cách sống tà mạng do thân và khẩu hành ác. Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chính là Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh. Chánh niệm: Niệm chân chính là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp, (ngoài ra không gọi là chánh niệm). Chánh định: Định chân chính là định tâm trong các bậc thiền Siêu tam giới tâm có Niết Bàn làm đối tượng. (Ngoài ra, định tâm ở bậc thiền hữu sắc, thiền vô sắc không gọi là chánh định). Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế, là pháp mà chư bậc Thánh đã chứng ngộ bằng Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ. Trên đây là 4 trí tuệ học hiểu biết các chi pháp của Tứ Thánh Đế, thuộc về phần Pháp học(pariyattidhamma). 2- Trí Tuệ hành phận sự Tứ Thánh Đế Khi 4 trí tuệ học đã hiểu biết rõ tất cả chi pháp trong Tứ Thánh Đế xong rồi, luân chuyển đến 4 trí tuệ hành theo phận sự của mỗi Thánh Đế như sau: 2.1 Trí tuệ hành phận sự Khổ Thánh Đế Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên biết (parinneyya), hay trí tuệ hành có phận sự nên biết danh pháp, sắc pháp là khổ đế.(không phải có phận sự nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành). 2.2 Trí tuệ hành phận sự Tập Thánh Đế Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái, là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên diệt (pāhātabba), hay trí tuệ hành có phận sự nên diệt tham ái. (không phải có phận sự nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành). 2.3 Trí tuệ hành phận sự Diệt khổ Thánh Đế Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba), hay trí tuệ hành có phận sự nên chứng ngộ Niết Bàn. (không phải có phận sự nên biết, nên diệt, nên tiến hành). 2.4 Trí tuệ hành phận sự Pháp hành diệt khổ Thánh Đế Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ hành có phận sự nên tiến hành (bhāvetabba), hay trí tuệ hành có phận sự nên tiến hành Bát Chánh Đạo. (không phải có phận sự nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ). Trên đây là 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế, thuộc về phần pháp hành (patipattidhamma). 3- Trí Tuệ thành phận sự Tứ Thánh Đế Khi 4 trí tuệ hành đang tiến hành phận sự Tứ Thánh Đế luân chuyển đến 4 trí tuệ thành hoàn thành xong phận sự của mỗi Thánh Đế như sau: 3.1 Trí tuệ thành phận sự Khổ Thánh Đế Khổ Thánh Đế: Đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới, là pháp mà trí tuệ thành đã biết xong (parinnata), đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã biết xong danh pháp, sắc pháp là Khổ Thánh Đế. 3.2 Trí tuệ thành phận sự Nhân sinh Khổ Thánh Đế Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái, là Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ thành đã diệt xong (pahīna), đã hoàn thành xong phận sự diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã diệt xong tham ái. 3.3 Trí tuệ thành phận sự Diệt Khổ Thánh Đế Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, là pháp mà trí tuệ thành đã chứng ngộ xong (sacchikata), đã hoàn thành xong phận sự chứng ngộ Diệt Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã chứng ngộ xong Niết Bàn. 3.4 Trí tuệ thành phận sự Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh, pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn là pháp mà trí tuệ thành đã tiến hành xong (bhāvita), đã hoàn thành xong phận sự tiến hành Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế, hay trí tuệ thành Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ đã tiến hành xong Bát Chánh Đạo. Trên đây là 4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế, thuộc về pháp thành(paṭivedhadhamma), đó là sự chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, gọi là 9 pháp Siêu tam giới (navalokuttaradhamma). Nhân Quả Liên Quan Tam Tuệ Luân * Từ quả suy ra nhân: 4 trí tuệ thành đã hoàn thành xong 4 phận sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, đó là kết quả của 4 trí tuệ hành theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế. 4 trí tuệ hành hành đúng theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế, đó là kết quả của 4 trí tuệ học hiểu biết rõ Tứ Thánh Đế. * Từ nhân đến quả: 4 trí tuệ học hiểu biết đúng theo các chi pháp của Tứ Thánh Đế, làm nhân duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ hành theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế. 4 trí tuệ hành hành đúng theo 4 phận sự của Tứ Thánh Đế làm nhân duyên dẫn đến kết quả 4 trí tuệ thànhđã hoàn thành xong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế. Đó là, sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán. Trí tuệ thấy rõ, biết rõ phạm hạnh đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn phải tái sinh kiếp nào khác nữa. Như trong đoạn kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Thế Tôn khẳng định: “Nānanca pana me dassanam udapādi, akuppā me vimutti, ayamantimājāti, natthi dāni punabbhavo”. Trí tuệ quán xét đã phát sinh đến Như Lai, biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả Tuệ giải thoát của Như Lai không bao giờ bị hư hoại, kiếp này là kiếp chót, sau kiếp hiện tại này, không còn phải tái sinh kiếp nào nữa. -ooOoo-
Tam Tuệ Luân của mỗi Thánh Đế Trong mỗi Thánh Đế có đủ Tam Tuệ Luân như sau: 1- Khổ Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ danh pháp, sắc pháp trong tam giới là Khổ Thánh Đế. Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên biết (parinneyya). Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên biết, thì đã biết rồi (parinnāta). 2- Nhân sinh khổ Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế. Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ tham ái là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên diệt (pahātabba). Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ tham ái là ác pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên diệt, thì đã diệt rồi (pahīna). 3- Diệt Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ Niết Bàn là pháp diệt Khổ Thánh Đế. Trí tuệ hành đang tiến hành thiền tuệ, để thấy rõ, biết rõ Niết Bàn là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên chứng ngộ (sacchikātabba). Trí tuệ thành đã tiến hành thiền tuệ, đã thấy rõ, biết rõ Niết Bàn là pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ rồi (sacchikata). 4- Pháp hành diệt khổ Thánh Đế Trí tuệ học hiểu biết rõ Bát Chánh Đạo là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt Khổ Thánh Đế. Trí tuệ hành đang tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp mà trí tuệ thiền tuệ có phận sự nên tiến hành(bhāvetabba). Trí tuệ thành đã tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp mà Thánh Đạo Tuệ - Thánh Quả Tuệ có phận sự nên tiến hành, thì đã tiến hành rồi (bhāvita). Trong mỗi Thánh Đế đều có Tam Tuệ Luân chuyển; trong Tứ Thánh Đế (4x3) gồm có 12 Tuệ Luân chuyển, có thể tượng trưng như một bánh xe Pháp Luân (Dhammacakka) có 12 căm luân chuyển. BẢNG TÓM TẮT TUỆ LUÂN TRONG TỨ THÁNH ĐẾ
Tam Tuệ Luân của 4 Bậc Thánh Nhân Mỗi bậc Thánh Nhân đều trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế, mỗi tuệ luân có năng lực trí tuệ khác nhau đối với từng bậc Thánh Nhân. Bậc Thánh Nhập Lưu trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ nhất, Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái trong 4 tâm tham hợp tà kiến (còn 4 tâm tham không hợp tà kiến, thì chưa diệt được). Bậc Thánh Nhất Lai trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ nhì, Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái ngũ trần loại thô trong 4 tâm tham không hợp tà kiến (còn ngũ trần loại vi tế, thì chưa diệt được). Bậc Thánh Bất Lai trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ ba, Bất Lai Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái ngũ trần loại vi tế trong 4 tâm tham không hợp tà kiến cõi dục giới (còn tham ái trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, thì chưa diệt được). Bậc Thánh Arahán trải qua Tam Tuệ Luân trong Tứ Thánh Đế lần thứ tư, Arahán Thánh Đạo Tuệ đã diệt đoạn tuyệt được tham ái trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới phạm thiên trong 4 tâm tham không hợp tà kiến. Như vậy, bậc Thánh Arahán diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn tham ái không còn dư sót. Tính chất 4 phận sự của Tứ Thánh Đế 4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành trong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế có tính chất liên quan đồng thời, không phận sự nào trước, không phận sự nào sau: Trong bộ Thanh Tịnh Đạo có ví dụ rằng: Khi đốt một cây đèn dầu (hay cây đèn cầy) trong đêm tối, có 4 sự việc xảy ra đồng thời, không trước, không sau: Ánh sáng tỏa ra. Bốn sự việc xảy ra cùng một lúc, không việc nào trước, không việc nào sau. Cũng giống như 4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành trong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế có tính chất đồng thời, không trước, không sau. Trong Kinh Gavampati [7] có đoạn dạy: Đại đức Gavampati thưa với chư Tỳ khưu rằng: - Này chư Pháp hữu, tôi được nghe từ nơi Đức Thế Tôn dạy rằng: Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Khổ Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng chứng ngộ Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế. Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Tập Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Diệt Thánh Đế, Đạo Thánh Đế. Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Diệt Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Đạo Thánh Đế. Vị Tỳ khưu nào chứng ngộ Đạo Thánh Đế, vị Tỳ khưu ấy cũng chứng ngộ Khổ Thánh Đế, Tập Thánh Đế, Diệt Thánh Đế... Như vậy, Tứ Thánh Đế có sự liên quan về phận sự với nhau đồng thời, không trước, không sau. Phần giải thích: * Bốn trí tuệ hành phận sự trong Tứ Thánh Đế Trong 4 trí tuệ hành phận sự này, trí tuệ hành phận sự khổ đế là chính, còn 3 trí tuệ hành phận sự kia làphụ. Song 4 phận sự có tính chất đồng thời, không trước, không sau, có danh pháp và sắc pháp làm đối tượng. Khi trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp nào, sắc pháp nào là khổ đế, thì đồng thời, tham ái là Nhân sinh khổ đế không sanh trong danh pháp ấy, sắc pháp ấy; cũng đồng thời, chứng ngộ sự diệt của tham ái là Nhân sinh khổ đế ở danh pháp ấy, sắc pháp ấy. Trong khi đang tiến hành thiền tuệ với chánh niệm, chánh kiến, chánh tinh tấn, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ khổ đế nên biết, tập đế nên diệt, diệt đế nên chứng ngộ, thì chính đạo đế đang nên tiến hành. Như vậy, 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế đồng thời, không trước, không sau. * Bốn trí tuệ thành phận sự trong Tứ Thánh Đế 4 trí tuệ thành là đã hoàn thành xong 4 phận sự của Tứ Thánh Đế là quả của 4 trí tuệ hành, cũng có tính chất đồng thời, không trước, không sau, chỉ có Niết Bàn làm đối tượng. Khi trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới đó là Thánh Đạo Tuệ đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh Đếthì: Đồng thời Thánh Đạo Tuệ cũng đã hoàn thành xong phận sự diệt tham ái Nhân sinh Khổ Thánh Đế (Tập Thánh Đế). Đồng thời Thánh Đạo Tuệ và Thánh Quả Tuệ đã chứng ngộ Niết Bàn Diệt Khổ Thánh Đế. Đồng thời Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, đồng sinh với Thánh Đạo Tâm, đã hoàn thành xong phận sựtiến hành Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế (Đạo Thánh Đế) là: Khổ Thánh Đế nên biết, thì đã biết xong Bốn trí tuệ thành phận sự này, đã hoàn thành xong 4 phận sự Tứ Thánh Đế, đồng thời, không trước, không sau, chỉ có Niết Bàn làm đối tượng. Vai trò 4 trí tuệ hành và 4 trí tuệ thành Trong 4 trí tuệ hành phận sự của Tứ Thánh Đế, giai đoạn đầu, trí tuệ hành phận sự biết Khổ Thánh Đếđóng vai trò chính yếu, đó là trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là khổ đế, là pháp nên biết. Trí tuệ hành phận sự của mỗi Thánh Đế còn lại, cũng thành tựu phận sự cùng một lúc, không trước, không sau. Trong 4 trí tuệ thành phận sự của Tứ Thánh Đế, giai đoạn cuối, trí tuệ thành phận sự đã tiến hành Đạo Thánh Đế đóng vai trò chính yếu, đó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh, đồng sinh với Thánh Đạo Tâm - Thánh Quả Tâm, có Niết Bàn làm đối tượng, hoàn thành xong phận sự đã tiến hành xong Bát Chánh Đạo, chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Trí tuệ thành phận sự của mỗi Thánh Đế còn lại, cũng thành tựu phận sự cùng một lúc, không trước, không sau. Tứ Thánh Đế trong giáo pháp của Đức Phật Tứ Thánh Đế là chân lý của chư bậc Thánh, là nền tảng căn bản, là pháp cốt lõi, trọng yếu trong giáo pháp của Chư Phật thời quá khứ, Đức Phật thời hiện tại và Chư Phật thời vị lai. Tứ Thánh Đế đó là: 1- Khổ Thánh Đế đó là ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới. Trong giáo pháp của Đức Phật, thì tất cả mọi danh pháp, sắc pháp cõi dục giới, cõi sắc giới và danh pháp cõi vô sắc giới, đúng theo chân lý đều là khổ đế (dukkhasacca), không phải lạc đế. Tuy có thọ lạc, nhưng thọ lạc cũng sinh rồi diệt, luôn luôn hành hạ, nên chỉ có khổ đế mà thôi. Trong tam giới không có pháp nào gọi là “lạc đế”, mà chỉ có “lạc đảo điên” (sukhavipallāsa) [8] , do quan niệm tâm đảo điên (cittavipallāsa), tà kiến đảo điên (ditthivipallāsa), tưởng đảo điên (sannāvipallāsa). Đúng theo chân lý thì chỉ có khổ đế mà thôi. Dầu có thọ lạc (sukhavedanā), nhưng thọ lạc cũng bị vô thường biến đổi, nên cũng chỉ là khổ đế mà thôi. Như Đại đức Tỳ khưu ni Vajirā dạy rằng: “Chỉ có khổ đế sanh, khổ đế trụ, khổ đế diệt. Do đó, ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới đều là khổ đế. 2- Nhân sinh Khổ Thánh Đế đó là tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế Tâm tham ái là Nhân sinh khổ trong kiếp hiện tại. Nếu tâm tham không được thỏa mãn, thì tâm sân phát sinh, không vừa lòng, làm khổ tâm. Nếu tâm tham mà được thỏa mãn, thì phát sinh tâm tham chấp thủ, cho là của ta, cũng làm nhân phát sinh tâm sân sầu não, lo sợ cũng làm khổ tâm. Như Đức Phật dạy trong Pháp Cú kệ rằng: “Tanhāya jāyatī soko “Sự sầu não phát sinh do tham ái Tâm tham ái là nhân dẫn dắt đi tái sinh khổ trong kiếp sau. Ngoại trừ bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tham ái ra, còn lại tất cả mọi chúng sinh: Nhân loại, chư thiên, phạm thiên và gồm cả 3 bậc Thánh hữu học (Thánh Nhập Lưu, Thánh Nhất Lai, Thánh Bất Lai) còn tham ái, nên còn phải tái sinh khổ trong kiếp sau. Chúng sinh có ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức uẩn) trong cõi dục giới và sắc giới, hay chúng sinh có tứ uẩn (thọ, tưởng, hành và thức uẩn) ở cõi vô sắc giới, hay chúng sinh chỉ có nhất uẩn (sắc uẩn) trong cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên, cũng đều phải chịu khổ đế. Chỉ khác nhau là khổ nhiều, khổ ít mà thôi. Do đó tâm tham ái là Nhân sinh Khổ Đế. 3- Diệt Khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn là pháp diệt đoạn tuyệt được tham ái, Nhân sinh Khổ Thánh Đế, cũng là pháp diệt quả Khổ Thánh Đế. * Niết Bàn là pháp diệt đoạn tuyệt tham ái Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo Tuệ, có đối tượng Niết Bàn, Thánh Đạo Tuệ nào có khả năng diệt đoạn tuyệt được tâm tham ái nào rồi tâm tham ái ấyvĩnh viễn không bao giờ phát sinh trở lại nữa, gọi là “Phiền Não Niết Bàn” (Kilesaparinibbāna). Loại phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt do Thánh Đạo Tuệ rồi, loại phiền não ấy vĩnh viễn không còn sanh trở lại. Trường hợp Đức Phật Gotama chứng ngộ Phiền Não Niết Bàn tại Đại cội Bồ đề. * Niết Bàn là pháp tịch diệt ngũ uẩn Bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, gọi là Ngũ uẩn Niết Bàn (Khandhaparinibbāna). Ngũ uẩn của bậc Thánh Arahán khi tịch diệt Niết Bàn rồi, không còn tái sinh kiếp sau nữa, như ngọn đèn tắt. Trường hợp Đức Phật Gotama tịch diệt Ngũ uẩn Niết Bàn tại khu rừng Kusinārā. Do đó, Niết Bàn là pháp diệt Khổ Thánh Đế. 4- Đạo Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế. Hành giả tiến hành thiền tuệ, đến khi chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, có đối tượng Niết Bàn. Khi ấy, Thánh Đạo Tâm hợp đủ 8 chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, đồng sanh với Thánh Đạo Tâm đã hoàn thành xong 4 phận sự: Khổ Thánh Đế là pháp nên biết, thì Thánh Đạo Tuệ đã biết xong. Nhân sinh khổ Thánh Đế là pháp nên diệt, thì Thánh Đạo Tuệ đã diệt xong. Diệt Khổ Thánh Đế là pháp nên chứng ngộ, thì Thánh Đạo Tuệ đã chứng ngộ xong. Pháp hành diệt khổ Thánh Đế là pháp nên tiến hành, thì Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh đã tiến hành xong. Do đó, Bát Chánh Đạo là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế. Tứ Thánh Đế là nền tảng, là cốt lõi chính yếu trong giáo pháp của Chư Phật. Vì vậy, hành giả tiến hành thiền tuệ, dầu có những đối tượng thiền tuệ khác nhau như thân, thọ, tâm, pháp, ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới,danh pháp, sắc pháp,... đến giai đoạn cuối cùng đều đạt đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, mới chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Nhân quả liên quan của Tứ Thánh Đế Chân lý Tứ Thánh Đế có nhân quả liên quan với nhau như sau: Khổ Thánh Đế: Đó là Ngũ uẩn chấp thủ, hay danh pháp, sắc pháp trong tam giới (dục giới, sắc giới, vô sắc giới), là quả của Nhân sinh Khổ Thánh Đế. Nhân sinh khổ Thánh Đế đó là tham ái là Nhân sinh Khổ Thánh Đế cũng là nhân dẫn dắt tái sinh kiếp sau(tanhā ponobbhavikā). Diệt khổ Thánh Đế đó là Niết Bàn không thuộc quả của một nhân nào. Vì Niết Bàn là Pháp Vô vi(Asaṅkhatadhamma), là pháp hoàn toàn không do một nhân duyên nào cấu tạo. Pháp hành diệt khổ Thánh Đế đó là Bát Chánh Đạo, là pháp hành dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ Thánh Đế. Như vậy, Bát Chánh Đạo là nhân đạt đến Niết Bàn (Diệt khổ Thánh Đế) không phải là nhân sinh Niết Bàn (Diệt khổ Thánh Đế), và Diệt khổ Thánh Đế cũng không phải là quả của Pháp hành diệt khổ Thánh Đế, mà chỉ là đối tượng Siêu tam giới của Pháp hành diệt khổ Thánh Đế mà thôi. Ví dụ: Con đường dẫn đến kinh đô. Con đường ví như Bát Chánh Đạo là Pháp hành diệt khổ Thánh Đế. Kinh đô ví như Niết Bàn là pháp Diệt khổ Thánh Đế. Con đường dẫn đến kinh đô, chứ không phải là nhân sinh kinh đô. Cũng như vậy, Pháp hành diệt khổ Thánh Đế không phải nhân sinh Niết Bàn Diệt khổ Thánh Đế, mà chỉ là nhân đạt đến Niết Bàn Diệt khổ Thánh Đế mà thôi. Trong Phật giáo có hai pháp hành: Pháp hành thiền định và pháp hành thiền tuệ, mà mỗi pháp hành có mục đích cuối cùng hoàn toàn khác nhau. Hành giả tiến hành thiền định, để đạt đến định tâm trong một đối tượng thiền định, tâm được an lạc, để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, các bậc thiền vô sắc. Hành giả nhập thiền (jhānasamāpatti) hưởng sự an lạc trong thiền. Sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp, hoặc vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi sắc giới, hoặc cõi vô sắc giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của mình, hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, rồi lại tái sinh kiếp khác tùy theo nghiệp của mình. Hành giả tiến hành thiền tuệ, để phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ Khổ đế trong các danh pháp, các sắc pháp, gọi là chánh kiến thiền tuệ (vipassanāsammādiṭṭhi) dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán. Bậc Thánh có thể nhập Thánh Quả (phalasamāpatti) hưởng an lạc Niết Bàn. Đến khi hết tuổi thọ, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Như vậy, hành giả đang tiến hành thiền định, mà tâm được an lạc trong đối tượng thiền định là hành đúng; còn hành giả đang tiến hành thiền tuệ, mà trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ Khổ đế trong đối tượng thiền tuệ là hành đúng. - Pháp hành thiền định có trong Phật giáo và ngoài Phật giáo. - Pháp hành thiền tuệ chỉ có trong Phật giáo mà thôi, không có ngoài Phật giáo. -ooOoo-
KINH VÔ NGÃ TƯỚNG Đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên bài kinh Chuyển Pháp Luân để tế độ nhóm 5 vị Tỳ khưu, Ngài Koṇḍanna chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, là vị Thánh Nhân đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama vào ngày rằm tháng 6 (âm lịch), tiếp theo sau, mỗi ngày một vị chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, đến ngày 19 tháng 6, nhóm 5 vị Tỳ khưu đều đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu. Ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta) để tế độ nhóm 5 vị Tỳ khưu chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Phần I: Ý nghĩa kệ khai kinh Vô Ngã Tướng Dhammacakkaṃ pavattetvā... Khu rừng yên tịnh nơi phóng sinh nai Phần II: Ý nghĩa của bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇasutta) [12] Evaṃ me sutaṃ... Lời của Ngài Đại đức Ānanda bạch với Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa. - Kính bạch Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa khả kính. Con là Ānanda được nghe bài kinh Vô Ngã Tướng từ Đức Thế Tôn như vầy: Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, trước kia Đức Phật Độc Giác thường ngự xuống. Tại nơi đây, Đức Thế Tôn bèn gọi nhóm 5 Tỳ khưu rằng: - Này chư Tỳ khưu. Chư Tỳ khưu đáp lời Đức Thế Tôn: - Dạ, kính bạch Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Vô Ngã Tướng như sau: Ngũ uẩn là vô ngã 1- Sắc uẩn là vô ngã - Này chư Tỳ khưu, sắc uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai). Này chư Tỳ khưu, thật vậy, nếu sắc uẩn này là ta (ngã), thì sắc uẩn này không bị biến đổi, không bệnh hoạn; và các con có thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng: “Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này! Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”. Này chư Tỳ khưu, sự thật, bởi vì sắc uẩn này là vô ngã, do đó, sắc uẩn này phải bị biến đổi, bệnh hoạn.Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong sắc uẩn này rằng: “Sắc uẩn của tôi được khỏe mạnh, đẹp đẽ như thế này! Sắc uẩn của tôi đừng có bệnh hoạn, xấu xí như thế kia”. (sắc uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên, không tùy thuộc theo ý muốn của mình). 2- Thọ uẩn là vô ngã - Này chư Tỳ khưu, thọ uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai). Này chư Tỳ khưu, thật vậy, nếu thọ uẩn này là ta (ngã), thì thọ uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng: “Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này! Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”. Này chư Tỳ khưu, sự thật, bởi vì thọ uẩn này là vô ngã; do đo, thọ uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thọ uẩn này rằng: “Thọ uẩn của tôi được an lạc như thế này! Thọ uẩn của tôi đừng khổ đau như thế kia”. (thọ uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai). 3- Tưởng uẩn là vô ngã - Này chư Tỳ khưu, tưởng uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai). Này chư Tỳ khưu, thật vậy, nếu tưởng uẩn này là ta (ngã), thì tưởng uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng: “Tưởng uẩn của tôi ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này! Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”. Này chư Tỳ khưu, sự thật, bởi vì tưởng uẩn này là vô ngã, do đó, tưởng uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong tưởng uẩn này rằng: “Tưởng uẩn của tôi được ghi nhớ điều tốt, điều thiện như thế này! Tưởng uẩn của tôi đừng ghi nhớ điều ác, điều xấu như thế kia”. (tưởng uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai). 4- Hành uẩn là vô ngã - Này chư Tỳ khưu, hành uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai). Này chư Tỳ khưu, thật vậy, nếu hành uẩn này là ta (ngã), thì hành uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng: “Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này! Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”. Này chư Tỳ khưu, sự thật bởi vì hành uẩn này là vô ngã, do đó, hành uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong hành uẩn này rằng: “Hành uẩn của tôi tạo thiện nghiệp như thế này! Hành uẩn của tôi đừng tạo ác nghiệp như thế kia”. (hành uẩn như thế nào tùy thuộc vào nhân duyên tiếp xúc đối tượng, không tùy thuộc theo ý muốn của ai). 5- Thức uẩn là vô ngã - Này chư Tỳ khưu, thức uẩn này là vô ngã (không phải ta, không chiều theo ý muốn của ai). Này chư Tỳ khưu, thật vậy, nếu thức uẩn này là ta (ngã), thì thức uẩn này không bị biến đổi, không bệnh tâm, không bệnh thân; và các con có thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng: “Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này! Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”. Này chư Tỳ khưu, sự thật, bởi vì thức uẩn này là vô ngã, do đó, thức uẩn này phải bị biến đổi, bệnh tâm, bệnh thân. Vì vậy, các con không thể mong muốn được trong thức uẩn này rằng: “Thức uẩn của tôi biết điều tốt, điều thiện như thế này! Thức uẩn của tôi đừng biết điều xấu, điều ác như thế kia”. (thức uẩn hoàn toàn tùy thuộc nhân duyên danh pháp, sắc pháp, không tùy thuộc theo ý muốn của ai). Ngũ uẩn có ba trạng thái chung 1) Sắc uẩn có 3 trạng thái chung - Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này? Sắc uẩn này là thường hay vô thường? - Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn này sinh rồi diệt là vô thường. - Này chư Tỳ khưu, sắc uẩn nào là vô thường, vậy sắc uẩn ấy là khổ hay lạc? - Kính bạch Đức Thế Tôn, sắc uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên sắc uẩn ấy là khổ. - Này chư Tỳ khưu, sắc uẩn nào vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi sắc uẩn ấy rằng: Sắc uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái) Sắc uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn) Sắc uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không? - Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ sắc uẩn ấy như vậy. 2) Thọ uẩn có 3 trạng thái chung - Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này? Thọ uẩn này là thường hay vô thường? - Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn này sinh rồi diệt là vô thường. - Này chư Tỳ khưu, thọ uẩn nào là vô thường, vậy thọ uẩn ấy là khổ hay lạc? - Kính bạch Đức Thế Tôn, thọ uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thọ uẩn ấy là khổ. - Này chư Tỳ khưu, thọ uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thọ uẩn ấy rằng: Thọ uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái) Thọ uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn) Thọ uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không? - Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thọ uẩn ấy như vậy. 3) Tưởng uẩn có 3 trạng thái chung - Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này? Tưởng uẩn này là thường hay vô thường? - Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn này sinh rồi diệt là vô thường. - Này chư Tỳ khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, vậy tưởng uẩn ấy là khổ hay lạc? - Kính bạch Đức Thế Tôn, tưởng uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên tưởng uẩn ấy là khổ. - Này chư Tỳ khưu, tưởng uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi tưởng uẩn ấy rằng: Tưởng uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái) Tưởng uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn) Tưởng uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không? - Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ tưởng uẩn ấy như vậy. 4) Hành uẩn có 3 trạng thái chung - Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này? Hành uẩn này là thường hay vô thường? - Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn này sinh rồi diệt là vô thường. - Này chư Tỳ khưu, hành uẩn nào là vô thường, vậy hành uẩn ấy là khổ hay lạc? - Kính bạch Đức Thế Tôn, hành uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên hành uẩn ấy là khổ. - Này chư Tỳ khưu, hành uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi hành uẩn ấy rằng: Hành uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái) Hành uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn) Hành uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không? - Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ hành uẩn ấy như vậy. 5) Thức uẩn có 3 trạng thái chung - Này chư Tỳ khưu, các con nhận thức thế nào về điều này? Thức uẩn này là thường hay vô thường? - Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn này sinh rồi diệt là vô thường. - Này chư Tỳ khưu, thức uẩn nào là vô thường, vậy thức uẩn ấy là khổ hay lạc? - Kính bạch Đức Thế Tôn, thức uẩn ấy sinh rồi diệt luôn luôn hành hạ, nên thức uẩn ấy là khổ. - Này chư Tỳ khưu, thức uẩn nào là vô thường, khổ, có trạng thái thường biến đổi. Vậy các con có nên theo chấp thủ bằng tâm tham ái, ngã mạn, tà kiến nơi thức uẩn ấy rằng: Thức uẩn ấy là của ta (do tâm tham ái) Thức uẩn ấy là ta (do tâm ngã mạn) Thức uẩn ấy là tự ngã của ta (do tâm tà kiến) hay không? - Kính bạch Đức Thế Tôn, quả thật không nên theo chấp thủ thức uẩn ấy như vậy. Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ ngũ uẩn: 1) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi sắc uẩn Vì vậy, này chư Tỳ khưu, những sắc uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc sắc uẩn bên trong của mình, hoặc sắc uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc sắc uẩn thô, hoặc sắc uẩn vi tế, hoặc sắc uẩn thấp hèn, hoặc sắc uẩn cao quý, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc sắc uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả sắc uẩn ấy rằng: Sắc uẩn ấy không phải của ta. Sắc uẩn ấy không phải ta. Sắc uẩn ấy không phải tự ngã của ta. 2) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thọ uẩn. Vì vậy, này chư Tỳ khưu, những thọ uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thọ uẩn bên trong của mình, hoặc thọ uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thọ uẩn thô, hoặc thọ uẩn vi tế, hoặc thọ uẩn thấp hèn, hoặc thọ uẩn cao quý, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thọ uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thọ uẩn ấy rằng: Thọ uẩn ấy không phải của ta. Thọ uẩn ấy không phải ta. Thọ uẩn ấy không phải tự ngã của ta. 3) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi tưởng uẩn. Vì vậy, này chư Tỳ khưu, những tưởng uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc tưởng uẩn bên trong của mình, hoặc tưởng uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc tưởng uẩn thô, hoặc tưởng uẩn vi tế, hoặc tưởng uẩn thấp hèn, hoặc tưởng uẩn cao quý, hoặc tưởng uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc tưởng uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả tưởng uẩn ấy rằng: Tưởng uẩn ấy không phải của ta. Tưởng uẩn ấy không phải ta. Tưởng uẩn ấy không phải tự ngã của ta. 4) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi hành uẩn. Vì vậy, này chư Tỳ khưu, những hành uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc hành uẩn bên trong của mình, hoặc hành uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc hành uẩn thô, hoặc hành uẩn vi tế, hoặc hành uẩn thấp hèn, hoặc hành uẩn cao quý, hoặc hành uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc hành uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả hành uẩn ấy rằng: Hành uẩn ấy không phải của ta. Hành uẩn ấy không phải ta. Hành uẩn ấy không phải tự ngã của ta. 5) Trí tuệ thiền tuệ không chấp thủ nơi thức uẩn. Vì vậy, này chư Tỳ khưu, những thức uẩn nào đã sinh trong thời quá khứ, sẽ sinh trong thời vị lai, đang sinh trong thời hiện tại, hoặc thức uẩn bên trong của mình, hoặc thức uẩn bên ngoài (của người khác), hoặc thức uẩn thô, hoặc thức uẩn vi tế, hoặc thức uẩn thấp hèn, hoặc thức uẩn cao quý, hoặc thức uẩn nào sinh ở nơi xa, hoặc thức uẩn nào sinh ở nơi gần. Vậy các con nên biết bằng trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ đúng theo thật tánh của tất cả thức uẩn ấy rằng: Thức uẩn ấy không phải của ta. Thức uẩn ấy không phải ta. Thức uẩn ấy không phải tự ngã của ta. Trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn. Này chư Tỳ khưu, thực tánh của ngũ uẩn như vậy, bậc Thánh Thanh Văn có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ ngũ uẩn đúng theo thật tánh, nên phát sinh trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong sắc uẩn, nhàm chán trong thọ uẩn, nhàm chán trong tưởng uẩn, nhàm chán trong hành uẩn, nhàm chán trong thức uẩn. Khi trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, nên tâm xả ly tham ái, do tâm xả ly tham ái nên chứng đắc Arahán Thánh Đạo, giải thoát khỏi mọi tham ái phiền não. Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Arahán Thánh Quả đã giải thoát hoàn toàn mọi phiền não trầm luân”. Trí tuệ quán xét biết rõ rằng: “Không còn phải tiến hành pháp hành Bát Chánh Đạo nữa, mọi phận sự của Tứ Thánh Đế đã hoàn thành xong, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thiện. Kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào nữa”. Nhóm 5 Tỳ khưu thành bậc Thánh Arahán Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Vô Ngã Tướng này xong, nhóm 5 Tỳ khưu vô cùng hoan hỷ với lời giáo huấn của Đức Thế Tôn. Trong khi Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh này, nhóm 5 Tỳ khưu tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Arahán Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, không còn chấp thủ trong ngũ uẩn này nữa. (xong bài kinh Vô Ngã Tướng). * Giải thích danh từ trong bài kinh Vô Ngã Tướng * Ý nghĩa danh từ Anattā Định nghĩa danh từ anattā như sau: Na attā anattā, natthi attā etassa khandhapañcakassā ti và anattā. Tất cả các pháp không phải ta, không phải của ta là pháp vô ngã, hay ngũ uẩn ấy không phải ta, không phải của ta cũng là pháp vô ngã. Ý nghĩa anattā: Vô ngã ở đây là phủ định attā: Ngã, ngã sở (theo quan niệm tà kiến). Trong bộ Ṭīkā [13] giải thích danh từ anattā: Vô ngã có 4 ý nghĩa sau: Avasavattanaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không chiều theo ý muốn của một ai. Asāmikaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là vô chủ, không có ai làm chủ. Suññataṭṭha: Vô ngã có nghĩa là không, không phải ta, không phải của ta. Attapaṭikkhepaṭṭha: Vô ngã có nghĩa là phủ nhận cái ngã, cái ta, cái đại ngã. Anattā và attā trong bài kinh Anattalakkhaṇasutta (Vô Ngã Tướng) có ý nghĩa hoàn toàn ngược lại nhau. Anattā: Vô ngã, ngũ uẩn này không chiều theo ý muốn của ai. Attā: Ngã, ta muốn ngũ uẩn được như thế này, không muốn ngũ uẩn như thế khác v.v... chiều theo ý muốn của ta. Nhưng thật tánh của ngũ uẩn này là vô ngã không chiều theo ý muốn của ai. Attā: Nghĩa là ta, ngã do tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hoặc danh pháp, sắc pháp cho là ta (ngã), tự ngã; ngã mạn theo chấp ta; tham ái theo chấp của ta. Ngoài ra, attā còn có ý nghĩa khác. * Ý nghĩa danh từ attā. Theo trong bộ tự điển Abhidhāna: tự điển từ ngữ Pāḷi câu kệ 861 danh từ attā có ý nghĩa rằng: “Citte kāye sabhāve ca, so attā paramattani.” Danh từ attā có 4 ý nghĩa: tâm, thân, thực tánh pháp và Ngã tối thượng (đại ngã). Giải thích: 1- Attā có ý nghĩa là citta: tâm. Ví dụ: Attasammāpaṇidhi: Đặt để tâm đúng trong thiện pháp, tâm mong muốn chân chính. Attamicchāpaṇidhi: Đặt để tâm sai lầm trong ác pháp, tâm mong muốn sai lầm. “Sabbe sattā bhavantu sukhitattā” [14] . “Attā hi kira duddamo” [15] . “Attānam damayanti panditā” . Attā ở đây có ý nghĩa là tâm. 2- Attā có ý nghĩa là kāya: Thân thể. Ví dụ: Đức Phật ban hành những giới của Tỳ khưu ni, trong đó có giới như: “Yā pana bhikkhunī attānam vadhitvā vadhitvā rodheyya pācittiyam ” [16] . “Attā hi attano natthi, Attā ở đây có ý nghĩa là thân thể. 3- Attā có ý nghĩa là sabhāva: Thực tánh pháp. Ví dụ: “Attā hi attano nātho, “Attadīpā bhikkhave, viharatha attasaranā anannasaranā” [18] . Attā: Ta ở đây có nghĩa là thực tánh pháp. Đó là tam giới thiện pháp, Siêu tam giới thiện pháp, là nơi nương nhờ chân chính của ta. 4- Attā có ý nghĩa là Parama attā: Ngã Tối Thượng, Đại ngã, theo tà kiến của ngoại đạo. Nhóm ngoại đạo có tà kiến cho rằng: “Tất cả vạn vật, vũ trụ này do Parama attā tạo ra, gọi là Ngã Tối Thượng, Đấng Tạo Hóa”. Parama attā: Ngã Tối Thượng, đại ngã theo tà kiến của nhóm ngoại đạo này, ý nghĩa nghịch với anattā: Vô ngã trong giáo pháp của Đức Phật. Như vậy, trong 4 ý nghĩa của attā, có 3 ý nghĩa là tâm, thân, thực tánh pháp thuộc về chánh kiến, cònParama attā: Ngã Tối Thượng, đại ngã theo quan niệm của nhóm ngoại đạo thuộc về tà kiến mà thôi. Attāditthi: Tà kiến chấp ngã, hoặc attānuditthi: Tà kiến theo chấp ngã là tà kiến thấy sai, hiểu lầm, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là ta, hoặc tà kiến thấy sai, chấp lầm từ danh pháp cho là ta là ngã, hoặc từ sắc pháp cho là ta là ngã, cũng ở trong ý nghĩa tà kiến này. 4 ý nghĩa attā: - Attā nghĩa là tâm. - Attā nghĩa là thân. - Attā nghĩa là thực tánh pháp. Cả 3 ý nghĩa attā này thuộc trong Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma) là pháp có ý nghĩa chân thật, có chi pháp, có thức tánh rõ ràng, trí tuệ thấy đúng biết đúng thuộc về chánh kiến. - Attā có nghĩa khác là ngã, ta... do tà kiến thấy sai, chấp lầm trong ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bên trong của mình cho là ta, là ngã và tà kiến thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn bên ngoài (của người khác) chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v... Đó là tà kiến chấp ngã (attadiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānudiṭṭhi) thông thường đối với hạng phàm nhân. Tà kiến chấp ngã đặc biệt của các nhóm ngoại đạo cho là cái ngã tối thượng, đại ngã (parama attā) thường tồn bất diệt, chính cái ngã tối thượng này tạo thiên lập địa, tạo ra mọi chúng sinh muôn loài, muôn vật trong thế gian. Và tà kiến chấp ngã trong mỗi chúng sinh có cái sinh mạng tự ngã (jīva attā) có khả năng hành động nói năng, suy nghĩ, đi, đứng, ngồi nằm v.v... Đó chỉ là tà kiến thấy sai, chấp lầm, chấp ngã mà thôi. CHÚNG SINH TRONG TAM GIỚI Tất cả chúng sinh trong tam giới có 3 loài: 1- Chúng sinh có ngũ uẩn trong 11 cõi dục giới [19] và 15 cõi sắc giới (trừ cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên). 2- Chúng sinh có tứ uẩn (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn) trong 4 cõi vô sắc giới. 3- Chúng sinh có nhất uẩn (sắc uẩn) trong cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên. Chúng sinh có ngũ uẩn Ngũ uẩn là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. Chúng sinh có ngũ uẩn như chúng sinh ở cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, loài người, chư thiên trong cõi dục giới và chư phạm thiên trong 15 cõi sắc giới. - Sắc uẩn thuộc về phần thân. - Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn thuộc về phần tâm. Ví dụ: Khi con người sống thì thân với tâm luôn luôn nương nhờ lẫn nhau. Phần thân hay sắc uẩn là riêng biệt, và phần tâm gồm có 4 uẩn: thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn luôn luôn nương nhờ lẫn nhau và không bao giờ tách rời nhau, bởi vì mỗi tâm luôn luôn có một số tâm sở. Trong mỗi tâm phát sinh, thì có một số tâm sở ít hoặc nhiều đồng sinh với tâm ấy, chính tâm ấy là thức uẩnvà các tâm sở đồng sinh với tâm, như tâm sở thọ là thọ uẩn, tâm sở tưởng là tưởng uẩn, tâm sở còn lại là hành uẩn. Cho nên, trong mỗi tâm đều có 4 uẩn nương nhờ lẫn nhau, không tách rời nhau. Nếu khi nào tâm tách rời khỏi thân, thì khi ấy gọi là người chết, thân trở thành tử thi. Con người chưa phải là bậc Thánh Arahán, thì sau khi chết rồi, chắc chắn nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp sau thuộc loài chúng sinh nào, hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp của người ấy cho quả tái sinh. Do đó, thân người chết là xong kiếp người, không thể tái sinh kiếp sau được, mà chỉ có nghiệp của người ấy đã tạo trong kiếp hiện tại hoặc kiếp quá khứ, chính nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau mà thôi. Tất cả mọi chúng sinh khác cũng giống như vậy. Không nên hiểu rằng: con người chết sẽ tái sinh làm chư thiên, hoặc súc sinh..., và cũng không nên hiểu rằng: “Chư thiên chết, rồi tái sinh làm người, hoặc một loài thú vật chết, rồi tái sinh làm người v.v...”. Sự thật, mỗi kiếp chúng sinh nào đến khi chết rồi, chấm dứt kiếp chúng sinh ấy; phần thân không liên quan đến kiếp sau, mà chỉ có phần tâm liên quan đến kiếp quá khứ, hiện tại và vị lai mà thôi. Còn tái sinh kiếp sau, do năng lực của tham ái dẫn dắt tái sinh, và chính nghiệp của chúng sinh ấy trực tiếp cho quả tái sinh kiếp sau. - Nếu nghiệp ác cho quả, thì sẽ tái sinh 1 trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh. - Nếu nghiệp thiện cho quả, thì được tái sinh một trong những cõi thiện giới: Làm người trong cõi người, làm chư thiên trong cõi trời dục giới, làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới, vô sắc giới. Cho nên, tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh không liên quan đến phần thân, chỉ liên quan đến phần tâmmà thôi. Pháp ngũ uẩn Uẩn (khandha) có nghĩa là “phần” gồm những phần có trạng thái giống nhau, liên kết vào với nhau. Ví dụ: Con người có ngũ uẩn. Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp thuộc phần thân. Thọ uẩn đó là tâm sở thọ. Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởng. Hành uẩn đó là 50 tâm sở nói chung (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng). Thức uẩn đó là 89 hay 121 tâm nói chung, mỗi tâm là thức uẩn. Thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn thuộc về phần tâm hay gọi là danh uẩn. Giải thích: 1) Sắc uẩn Sắc uẩn đó là 28 sắc pháp như sau: Sắc tứ đại: là 4 sắc pháp lớn rõ ràng. Địa đại: chất đất có trạng thái cứng hoặc mềm. Sắc tứ đại này là nơi nương nhờ của 24 sắc pháp phụ thuộc. 24 sắc pháp phụ thuộc vào sắc tứ đại: 5 sắc tịnh căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. 28 sắc pháp này đều gọi là sắc uẩn. Một người bình thường, không bị khuyết tật, thân thể có đầy đủ 27 sắc pháp. Nếu là người nam, thì trừ sắc nữ tính. 2) Thọ uẩn. Thọ uẩn đó là tâm sở thọ, có trạng thái cảm thọ trong đối tượng. Thọ có 3 loại tính theo cảm thọ trong đối tượng: Thọ khổ có trạng thái khổ khó chịu. Thọ có 5 loại tính theo cảm thọ đối tượng do thân, tâm làm chủ: Thọ khổ đồng sinh với thân thức tâm (thân khổ). Mỗi tâm phát sinh có tâm sở thọ đồng sinh với tâm, tâm sở thọ ấy là thọ uẩn. 3) Tưởng uẩn. Tưởng uẩn đó là tâm sở tưởng có trạng thái ghi nhớ trong 6 đối tượng. Sắc tưởng ghi nhớ các hình ảnh màu sắc. Mỗi tâm phát sinh, đều có tâm sở tưởng đồng sinh với tâm, tâm sở tưởng ấy là tưởng uẩn. 4) Hành uẩn. Hành uẩn đó là 50 tâm sở (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng). Có trạng thái cấu tạo, tạo các pháp; tâm sở tác ý (cetanā) đồng sinh với bất thiện tâm, tạo nên bất thiện nghiệp (ác nghiệp) do thân, khẩu, ý; tâm sở tác ý (cetanā) đồng sinh với thiện tâm, tạo nên thiện nghiệp, do thân, khẩu, ý. Mỗi tâm phát sinh, có các tâm sở này ít hoặc nhiều, tùy theo năng lực và phận sự của mỗi tâm. Ngoại trừ hai tâm sở thọ và tâm sở tưởng ra, các tâm sở còn lại đều là hành uẩn. 5) Thức uẩn. Thức uẩn đó là tất cả các tâm gồm có 89 hoặc 121 tâm có trạng thái biết đối tượng. Đối tượng có 6 loại, do đó tất cả tâm chia ra làm 6 loại tâm. Nhãn thức tâm: có 2 tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần, các hình ảnh. Mỗi tâm là mỗi thức uẩn. Thật ra, mỗi tâm phát sinh đều có một số tâm sở ít hoặc nhiều tùy theo năng lực và phận sự của tâm ấy. Các tâm sở này đồng sinh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng đối tượng với tâm, đồng nơi phát sinh với tâm. Cho nên, khi mỗi tâm phát sinh nghĩa là 4 danh uẩn đồng sinh; khi tâm diệt nghĩa là 4 danh uẩn đồng diệt. Mỗi tâm phát sinh đều nương nhờ nơi môn đó là sắc pháp. Như vậy: Sắc pháp mà tâm ấy nương nhờ thuộc sắc uẩn. Những chúng sinh có ngũ uẩn: Khi mỗi tâm phát sinh là ngũ uẩn phát sinh, Vốn trạng thái của tâm sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục không ngừng, bởi do nhân duyên hỗ trợ từ vô thủy cho đến nay, từ kiếp này sang kiếp khác tiếp nối nhau, trên cuộc hành trình tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh. Vốn trạng thái của thân hoặc sắc uẩn cùng sinh rồi diệt, diệt rồi sinh liên tục không ngừng giới hạn trong mỗi kiếp, do bởi nghiệp và tuổi thọ của mỗi chúng sinh. Khi nghiệp ấy tận cùng, tuổi thọ hết, thân mạng chủ (sắc mạng chủ: Rūpujīvitindriya) bị cắt đứt, chấm dứt một kiếp, đồng thời tâm tách rời khỏi thân, gọi là chết. Sau khi chết, nếu chúng sinh ấy còn phiền não, tham ái, thì nghiệp còn cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp trước với kiếp sau không liên quan đến phần thân, mà chỉ liên quan đến phần tâm. Đức Phật dạy ngũ uẩn này đều là vô ngã. Vô ngã với nghĩa: - Anattā asārakaṭṭhena: Vô ngã với ý nghĩa là vô dụng, không có cốt lõi vững chắc, không có tính chất bền vững lâu dài. - Avasavattanaṭṭhena anattā: Vô ngã với ý nghĩa không chiều theo ý muốn của ai. Những ví dụ về Ngũ uẩn Trong bài kinh Pheṇapiṇḍasutta [21] Đức Phật thuyết dạy những ví dụ về mỗi uẩn có ý nghĩa được tóm lược như sau: 1- Sắc uẩn ví như bọt nước (pheṇapiṇḍūpamaṃ rūpaṃ). Nghĩa là sắc uẩn (thân), đó là 28 sắc pháp ví như bọt nước. Trong mùa mưa lụt lớn, trên dòng sông nước chảy kết tụ những bọt nước thành đống bọt nước lớn. Đống bọt nước này dù nhỏ, dù lớn cũng không thể sử dụng làm vật gì, để đem lại sự lợi ích lâu dài; nếu đống bọt nước này trôi đi chưa bị tan rã giữa đường, thì khi trôi ra đến biển chắc chắn phải bị tan rã, trở nên vô dụng. Cũng như vậy, sắc uẩn (thân) này đó là 28 sắc pháp sanh rồi diệt có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, trạng thái bất tịnh, thường có mọi thứ bệnh hoạn ốm đau. Sắc uẩn (thân) này khi tái sinh đầu thai ban đầu nhỏ xíu, theo thời gian, to lớn dần như thân hình của con voi, con cá mập,... rồi cuối cùng cũng bị tan rã, trở thành vô dụng. Cho nên, Đức Phật ví sắc uẩn (thân) này như bọt nước. 2- Thọ uẩn ví như bong bóng nước (vedanāpubbuḷūpamā) Nghĩa là thọ uẩn, đó là tâm sở thọ, ví như bong bóng nước. Trời mưa lớn, hạt mưa nặng hạt rơi xuống hồ, vũng nước... nổi lên những bong bóng nước. Những bong bóng nước này nổi lên liền vỡ ngay, không thể sử dụng làm gì để đem lại sự lợi ích, trở thành vô dụng. Cũng như vậy, thọ uẩn này đó là thọ khổ, thọ lạc, thọ xả ... sinh rồi diệt mau lẹ, không tồn tại lâu dài, chỉ có khổ mà thôi, trở thành vô dụng. Cho nên, Đức Phật ví thọ uần này như bóng nước. 3- Tưởng uẩn ví như ảo ảnh (maricikūpamā saññā). Nghĩa là tưởng uẩn, đó là tâm sở tưởng ví như ảo ảnh. Trong mùa hè nóng bức, khách lữ hành nóng nực và khát nước đi trên đường, nhìn về phía trước trời nắng chập chờn gợn sóng giống như đằng trước có nước sông. Khi đi đến, gợn sóng kia di chuyển đến phía trước, luôn luôn có một khoảng cách. Đó là ảo ảnh không có thật chỉ là vô dụng. Cũng như vậy, tưởng uẩn này ghi nhớ, tưởng nhớ những đối tượng không còn thật nữa. Ví như khi khát nước, tưởng nhớ đến nước, nhưng không giúp làm cho đỡ cơn khát được, trở thành vô dụng. Cho nên, Đức Phật ví tưởng uẩn này ví như ảo ảnh. 4- Hành uẩn ví như cây chuối (saṅkhārā kadalūpamā). Nghĩa là hành uẩn, đó là 50 tâm sở, (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) ví như cây chuối. Một người cần cây có lõi, đi vào rừng nhìn thấy cây chuối lớn trơn tru, người ấy chặt cây chuối đem về nhà. Khi bóc bẹ chuối từ ngoài vào trong ruột, không tìm thấy lõi cây, chỉ là vô dụng mà thôi. Cũng như vậy, hành uẩn này tạo tác các pháp hữu vi, mà các pháp hữu vi sinh rồi diệt, có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, không phải ta, không phải của ta, chỉ là vô dụng mà thôi. Cho nên, Đức Phật ví hành uẩn này như cây chuối. 5- Thức uẩn ví như nhà ảo thuật (mayūpamaṃ viññāṇaṃ). Nghĩa là thức uẩn, đó là 89 hoặc 121 tâm, ví như nhà ảo thuật. Các nhà ảo thuật biểu diễn các trò ảo thuật rất nhanh tay, để đánh lừa khán giả một cách tinh xảo. Cũng như vậy, đối với các hàng phàm nhân, thức uẩn biết mọi đối tượng cho là ta biết, nhưng biết sai lầm đảo điên; các pháp hữu vi là vô thường, biết cho là thường; các pháp hữu vi là khổ, biết cho là lạc; các pháp hữu vi là vô ngã, biết cho là ngã (ta); các pháp hữu vi là bất tịnh, biết cho là tịnh, xinh đẹp,... nhưng thật ra, các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh. Thế mà thức uẩn của các hàng phàm nhân biết bị đánh lừa đảo điên. Cho nên, Đức Phật ví thức uẩn này như nhà ảo thuật. -ooOoo-
PHÁP VÔ NGÃ Pháp vô ngã không những có trong ngũ uẩn, mà còn gồm có trong các pháp hữu vi và pháp vô vi. Đức Phật dạy: Sabbe dhammā anattā. Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã. Pháp hữu vi: Đó là ngũ uẩn, 12 xứ, 18 giới...là pháp được cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Các pháp hữu vi này đều là pháp vô ngã. Pháp vô vi: Đó là Niết Bàn (kể cả pháp chế định) là pháp không bị cấu tạo bởi 4 nhân duyên: nghiệp, tâm, thời tiết, vật thực. Pháp vô vi này cũng đều là pháp vô ngã. Pháp vô ngã này chỉ có trong Phật giáo; ngoài Phật giáo, hoàn toàn không có quan niệm về pháp vô ngã này. Thật vậy, trong đời, người nào không biết về Phật giáo, người ấy có thể có quan niệm về vô thường, quan niệm về khổ, nhưng không bao giờ có quan niệm về vô ngã. Ví dụ: Khi người ta gặp trường hợp người hoặc vật đang có hiện hữu rồi chết hoặc mất, không còn hiện hữu nữa. Người ta than rằng: Vô thường! Vô thường! Có rồi không có! Khi người ta mắc bệnh hoạn hoặc ốm đau, bệnh nan y khó chữa, hoặc gặp phải tai nạn bi thương... người ta thốt lên rằng: Khổ quá! Khổ quá! Không chịu đựng nổi! Trong những trường hợp ấy chẳng bao giờ nghe người ta thốt lên: Vô ngã! Vô ngã! Bởi vì, những người ấy không có quan niệm về vô ngã, mà chỉ có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác) cho là ngã, ta, người, chúng sinh v.v... mà thôi. Vả lại, những người ấy có quan niệm về vô thường, khổ quá thô thiển; nghĩa là mỗi khi gặp hoàn cảnh xấu, trường hợp có rồi không có, lâm bệnh, tai nạn... thì mới thốt lên: Vô thường! Khổ quá! Trong cuộc sống bình thường, những người ấy có tà kiến thấy sai chấp lầm đảo điên, trong ngũ uẩn bên trong của mình và ngũ uẩn bên ngoài (của người khác), chúng sinh khác cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh. Trong Phật giáo, những người nào học hỏi nghiên cứu, thực hành theo giáo pháp của Đức Phật, những người ấy có ý thức rõ ràng về vô thường, khổ, vô ngã vô cùng vi tế, sâu sắc. Thật ra: Vô thường, khổ, vô ngã có trong thật tánh của các pháp hữu vi, bởi vì pháp hữu vi sinh rồi diệt không ngừng, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Đặc biệt nhất đối với hành giả đang tiến hành thiền tuệ, có trí tuệ thiền tuệ phát sinh, thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, nên trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn bằng chánh kiến thiền tuệ mới diệt được tà kiến, thấy sai chấp lầm nơi sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho rằng: thường, lạc, ngã, tịnh. Tự ngã có thật hay không? Đức Phật dạy: Tất cả các pháp hữu vi, pháp vô vi đều là pháp vô ngã. Như vậy, theo giáo pháp của Đức Phật thì không có tự ngã, cái ta thật. Thật vậy, người ta có quan niệm rằng ta đi, ta đứng, ta ngồi, ta nằm, ta thấy, ta nghe, ta ngửi, ta nếm, ta cảm giác, ta suy nghĩ, ta buồn, ta vui, v.v... và v.v... Trong vô số cái ta ấy, thử hỏi cái ta nào là cái ta thật? Sở dĩ, có vô số cái ta ấy, là do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn hay nói cách khác do tà kiến thấy sai, chấp lầm từ sắc pháp [22] từ danh pháp [23] cho là ta, ngã. Khi có tà kiến thấy sai, chấp lầm từ ngũ uẩn, hoặc sắc pháp, danh pháp bên trong của mình cho là ta, ngã; thì cũng thấy sai, chấp lầm ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp bên ngoài (của người khác) của chúng sinh khác cho là người, chúng sinh v.v... Như vậy, cái ta thật không có, mà chỉ có tâm tà kiến là có thật. Tự ngã, cái ta không có thật, thì phương pháp diệt ngã cũng không có. Tâm tà kiến có thật, nên phương pháp diệt tâm tà kiến có thật Nếu khi đã diệt được tâm tà kiến theo chấp ngã rồi, thì chắc chắn không còn thấy sai, chấp lầm từ sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn, hoặc từ sắc pháp, từ danh pháp cho là ta, là người, là chúng sinhv.v... vĩnh viễn không phát sinh lại được nữa. Phương pháp diệt tâm tà kiến chỉ có cách tiến hành thiền tuệ mà thôi. Khi trí tuệ thiền tuệ phát sinh tuần tự từ thấp đến cao qua 16 trí tuệ thiền tuệ, lần thứ nhất, đến trí tuệ thứ 14 gọi là Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ. Chính trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới này có Niết Bàn làm đối tượng, mới có khả năng đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tâm tà kiến theo chấp ngũ uẩn (sakkāyaḍiṭṭhi) hoặc tà kiến theo chấp ngã (attānuḍiṭṭhi). Cho nên, đối với bậc Thánh Nhập Lưu hoàn toàn không còn tà kiến theo chấp ngũ uẩn, hoặc tà kiến theo chấp ngã,bất cứ lúc nào trong kiếp hiện tại, hoặc kiếp vị lai (nhiều nhất 7 kiếp nữa). Chấp ngã có 3 loại Sự chấp ngã có 3 loại: Tà kiến theo chấp ngã. Tà kiến theo chấp ngã: Tà kiến theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là tự ngã của ta (eso me attā). Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tà kiến theo chấp ngã này không còn dư sót, còn lại tham ái theo chấp ngã và ngã mạn theo chấp ngã vẫn còn. Song bậc Thánh Nhập Lưu không bao giờ tạo ác nghiệp nặng nào có thể cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; chỉ tái sinh cõi người hoặc cõi trời dục giới nhiều nhất là 7 kiếp, đến kiếp thứ 7 chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh Arahán, tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Tham ái theo chấp ngã: Tham ái theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cho là của ta(etaṃ mama). Bậc Thánh Bất Lai có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại tham ái theo chấp ngã trong cõi dục giới. Còn tham ái loại vi tế trong bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, trong cõi sắc giới, cõi vô sắc giới chưa diệt được và ngã mạn theo chấp ngã cũng chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất Lai mãn kiếp ở cõi người, không trở lại tái sinh cõi dục giới, mà chính bậc thiền hữu sắc (hoặc bậc thiền vô sắc) sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới (hoặc cõi trời vô sắc giới) và chắc chắn sẽ trở thành Bậc Thánh Arahán trên cõi trời sắc giới ấy, rồi tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Ngã mạn theo chấp ngã: Ngã mạn theo chấp sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn... cho là ta(eso hamasmi). Bậc Thánh Arahán có khả năng diệt đoạn tuyệt được loại ngã mạn theo chấp ngã này, và tham ái theo chấp ngã loại vi tế trong các bậc thiền và cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới. Cho nên, bậc Thánh Arahán mãn kiếp ở cõi người, đồng thời tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hối trong ba giới bốn loài. Chấp ngã - không chấp ngã Tất cả chúng sinh nói chung, con người nói riêng, hễ còn là phàm nhân, chưa phải Thánh Nhân, thì còn chấp ngã do bởi phiền não, nhất là tà kiến, tham ái, ngã mạn. Sở dĩ một số phàm nhân vẫn còn có chấp ngã, là vì họ không đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn; không được lắng nghe chánh pháp, không hiểu biết chánh pháp, không hành pháp hành thiền tuệ, không chứng đắc thành bậc Thánh Nhân... Do đó, số phàm nhân ấy có phiền não nặng nề, nên còn chấp ngã, rồi tự làm khổ mình, làm khổ người, làm khổ mình lẫn người, trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai. Còn những hạng thiện trí phàm nhân thường đến gần gũi thân cận với bậc thiện trí trong Phật giáo, với bậc Thánh Thanh Văn Giác; được lắng nghe chánh pháp, hiểu biết chánh pháp, tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não trở thành bậc Thánh Arahán. hoàn toàn không còn tà kiến, tham ái, ngã mạn nữa, bậc Thánh Arahán có trí tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn này là: Không phải tự ngã của ta (na me so attā). Cho nên, bậc Thánh Nhân không còn làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ mình lẫn người. Nếu hành giả tiến hành thiền tuệ mà chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào, thì vẫn còn là hạng thiện trí phàm nhân (kalyāṇaputhujjana) chưa diệt được tà kiến chấp ngã. Tuy hạng thiện trí phàm nhân còn tà kiến chấp ngã, nhưng tà kiến chấp ngã này chỉ có trở ngại cho Siêu tam giới thiện pháp mà thôi, chứ không làm trở ngại cho việc tạo mọi tam giới thiện pháp đó là dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp. Cho nên, hạng thiện trí phàm nhân này sau khi chết: - Nếu có dục giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm người, hoặc làm thiên nam hoặc làm thiên nữ ở 1 trong 6 cõi trời dục giới. - Nếu có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì được tái sinh làm phạm thiên ở 1 trong 16 cõi sắc giới phạm thiên. - Nếu có vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh, thì sinh làm phạm thiên ở 1 trong 4 cõi vô sắc giới phạm thiên. Như vậy, tà kiến chấp ngã của hạng thiện trí phàm nhân chỉ có trở ngại cho pháp Siêu tam giới, nghĩa là ngăn cản sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn mà thôi. -ooOoo- [1] Bộ Saṃ, Mahāvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta. [2] Tám thứ vật dụng của Samôn: Tam y, một bát, dây thắt lưng, dao cạo tóc, ống kim chỉ và đồ lọc nước. [3] Danh pháp: Pháp thuộc về tâm và tâm sở có trạng thái sinh rồi diệt liên tục không ngừng. [4] Sắc pháp: Pháp thuộc về sắc có trạng thái sinh rồi diệt, hủy hoại. [5] Saṃ Mahāvagga, Kinh Dhammacakkappavattanasutta. [6] Tâm, tâm sở, sắc pháp, Niết Bàn là 4 chân nghĩa pháp; tìm hiểu rõ trong quyển “Abhidhammatthasaṅgaha”. [7] Bộ Samyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Gavampatisutta. [8] Vipallāsa nghĩa là đảo điên trong 3 pháp: - Diṭṭhivipallāsa: Tà kiến đảo điên thấy các pháp đảo điên rằng: thường, lạc, ngã, tịnh. Nhưng thực tánh của các pháp có trạng thái vô thường, khổ não, vô ngã, bất tịnh. [9] Bộ Samyuttanikāya, Sagathavagga, kinh Vajirāsutta. [10] Bộ Dhammapadagāthā. [11] Theo Ấn Độ mỗi tháng chia ra làm hai kỳ: - Kỳ nửa tháng trước, kể từ mồng một đến ngày rằm. - Kỳ nửa tháng sau cũng kể từ mồng một đến cuối tháng. - Ngày mồng năm nửa tháng sau, theo lịch nước ta là ngày 20 tháng 6 âm lịch. [12] Bộ Samyuttanikāya, khadhavagga, kinh Anattalakkhaṇasutta. [13] Bộ Sāratthadīpanīṭīkā, kinh Anattalakkhaṇasuthavaṇṇanā. [14] Bộ KhuṢuttanipāta, kinh Mettasutta. [15] Khu. Bộ Dhammapadagāthā. [16] Tạng Luật, phần Bhikkhunīpātimokkha. [17] Khu. Bộ Dhammapadagāthā. [18] Bộ Samyuttanikāya, phần Khandhavagga, kinh Attadīpasutta. [19] 11 cõi dục giới là: 4 cõi ác giới + 1 cõi người + 6 cõi trời dục giới. [20] Xúc gồm có 3 sắc pháp: đất, lửa, gió trong phần tứ đại, nên chi pháp không tính trong phần sắc pháp phụ thuộc. Vậy sắc đối tượng còn lại 4 không phải là 5-7. [21] Bộ Saṃ, Khandhavagga, kinh Pheṇapiṇḍasītta. [22] Sắc pháp đó là sắc uẩn, thuộc về thân. [23] Danh pháp đó là 4 danh uẩn (thọ, tưởng, hành, thức) thuộc về tâm. <span" style="font-style: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; orphans: auto; text-align: start; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: auto; word-spacing: 0px; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration: none; caret-color: rgb(0, 0, 0); color: rgb(0, 0, 0);"> -ooOoo- </span"> from https://theravada.vn/chuong-i-d-duc-phap-dhamma/ CHƯƠNG I (c) 45 Hạ (vassa) của Đức Phật Gotama Theo lệ thường Chư Phật không ở một nơi nào suốt trong thời gian lâu, chỉ khi nào đến mùa an cư nhập hạ, khi ấy Chư Phật mới ở một nơi suốt ba tháng hạ theo truyền thống của Chư Phật. Từ khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian cho đến khi tịch diệt Niết Bàn, Ngài chỉ có 45 hạ (vassa)[1] mà thôi. Theo thông lệ, Đức Phật thường du hành khắp mọi nơi, thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành nên tế độ, trong khoảng thời gian mau hoặc lâu tùy duyên. Nhưng đến mùa an cư nhập hạ, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng ở một nơi nào đó suốt 3 tháng trong mùa mưa. Khi mãn hạ, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng du hành đến những nơi khác để thuyết pháp tế độ chúng sinh. Theo tuần tự 45 hạ của Đức Phật Tóm lược những điểm đặc biệt mỗi hạ của Đức Phật 1- Hạ đầu tiên: Sau khi thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattanasutta) lần đầu tiên là vào ngày rằm tháng sáu để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu có Ngài Koṇḍanna chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu. Ngay khi ấy Đức Phật Bảo, Đức Pháp Bảo, Đức Tăng Bảo, Tam Bảo trọn vẹn lần đầu tiên xuất hiện trên thế gian. Ngày 16 tháng 6, ngày bắt đầu của mùa mưa. Đức Phật cùng nhóm 5 Tỳ khưu an cư nhập hạ thứ nhất tại vườn phóng sinh nai gọi là Isipatana gần kinh thành Bārāṇasi suốt 3 tháng, cho đến ngày 16 tháng 9 mới mãn hạ. Vào ngày đầu an cư nhập hạ là ngày 16 tháng 6, Ngài Đại đức Vappa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu. Ngày 17 tháng 6, là ngày Ngài Đại đức Bhaddiya, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu. Ngày 18 tháng 6, là ngày Ngài Đại đức Mahānāma, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu. Ngày 19 tháng 6, là ngày Ngài Đại đức Assaji, chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, rồi xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu. Ngày 20 tháng 6, Đức Phật thuyết giảng bài kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇsutta) tế độ nhóm 5 Tỳ khưu, tất cả đều chứng đắc từ Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả, Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả, Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán. Đó là 5 vị thánh Arahán đầu tiên xuất hiện trên thế gian, trong những ngày đầu mùa hạ này. Sau đó, Đức Phật đã thuyết pháp tế độ cho các hàng Thanh Văn đệ tử, thêm 55 vị nữa đã chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. Sau khi mãn hạ, Đức Phật và 60 vị Thánh Arahán, mỗi vị đi một hướng thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ. 2- Hạ thứ nhì: Đức Phật cùng 20.000 chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veluvana gần kinh thành Rājagaha. Sau khi mãn hạ, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng sinh. 3-4 Hạ thứ ba và thứ tư: Đức Phật ngự du hành khắp mọi nơi để thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ. Đến mùa mưa Đức Phật trở lại an cư nhập hạ thứ ba và thứ tư cùng với chư Đại đức Tỳ khưu Tăng tại ngôi chùa Veluvana gần kinh thành Rājagaha. 5- Hạ thứ năm: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại giảng đường Kuṭāgāra, trong khu rừng lớn gần kinh thành Vesāli. Khi ấy bà Mahāpajāpatigotamī cùng 500 người nữ dòng Sakya tự cạo đầu mặc y giống như bậc xuất gia, đi chân không từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh thành Vesāli, đứng khóc trước cổng giảng đường Kuṭāgāra vì tủi thân do Đức Phật chưa cho phép người nữ xuất gia trở thành Tỳ khưu ni trong giáo pháp của Ngài. Đại đức Ānanda gặp bà Mahāpajāpatigotamī mới hiểu rõ ý nguyện của bà, nên vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép người nữ được xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:”Nếu bà Mahāpajāpatigotamī chấp thuận 8 trọng pháp (garudhamma), thì đó là sự xuất gia trở thành Tỳ khưu ni của bà”. Đại đức Ānanda trở ra thưa lại cho bà rõ 8 trọng pháp ấy; bà vô cùng hoan hỷ chấp thuận 8 trọng pháp ấy và nghiêm chỉnh thực hành đầy đủ trọn vẹn cho đến suốt đời. Đó là sự xuất gia trở thành Tỳ khưu ni của bà Mahāpajāpatigotamī, còn 500 người nữ dòng Sakya xuất gia trở thành Tỳ khưu ni theo cách ñatticatutthakammavācā. Như vậy, Tỳ khưu ni Tăng xuất hiện trong giáo pháp của Đức Phật Gotama bắt đầu từ hạ thứ năm của Đức Phật. 6- Hạ thứ sáu: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại núi Makula trong xứ Magadha. Một sự việc xảy ra, ông phú hộ Rājagaha có một gốc cây trầm đỏ rất quý giá, ông cho thợ tiện một cái bát rồi treo trên một cây cao và thông báo rằng: - Trong đời này, nếu có vị nào là bậc Thánh Arahán, có thần thông, thì xin vị ấy bay lên lấy cái bát trầm này, tôi sẽ phát sinh đức tin nơi vị ấy. Sáu nhóm ngoại đạo thường tự cho mình là bậc Arahán có nhiều thần thông, đều đến xin ông phú hộ dâng cái bát trầm ấy, nhưng ông phú hộ thưa rằng: - Nếu Ngài là bậc Arahán có thần thông, thì xin Ngài bay lên lấy cái bát trầm xuống đây. Đã 6 ngày qua không có một vị nào bay lên lấy cái bát trầm ấy được. Dân chúng trong thành Rājagahathầm nghĩ rằng trong đời này không có bậc Thánh Arahán chăng? Đến ngày thứ 7, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và Ngài Đại đức Piṇḍobhāradvāja đi vào khất thực trong kinh thành Rājagaha, khi nghe tin như vậy, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna bảo Ngài Đại đức Piṇḍobhāradvāja bay lên lấy cái bát trầm, để đem lại đức tin cho mọi người. Ngài Đại đức Piṇḍobhāradvāja hóa phép thần thông bay lên lấy cái bát trầm ấy, rồi bay 3 vòng quanh kinh thành Rājagaha, rồi đáp nhẹ xuống ngôi nhà ông phú hộ. Ông phú hộ phát sinh đức tin trong sạch, thỉnh Ngài vào lâu đài, ngồi trên chỗ cao quý, rồi đảnh lễ Ngài và đón nhận cái bát, cúng dường vật thực ngon lành dâng lên Ngài Đại đức. Đại đức Piṇḍobhāradvāja trở về chùa, có số đông dân chúng chưa được tận mắt nhìn thấy Ngài biểu diễn thần thông, nên họ kéo nhau đến tìm Ngài, xin Ngài biểu diễn thần thông cho họ xem. Khi ấy, Đức Thế Tôn biết sự việc xảy ra, nên hội họp chư Tỳ khưu Tăng lại và Đức Thế Tôn quở trách Đại đức Piṇḍobhāradvāja rằng: - Này Piṇḍobhāradvāja, chỉ có cái bát trầm này, mà con biểu diễn thần thông cho người tại gia xem. Đó không phải là phận sự của Samôn, không làm phát sinh đức tin đối với người chưa có đức tin. Đó là nguyên nhân đầu tiên, Đức Phật chế định cấm Tỳ khưu không được biểu diễn thần thông cho người tại gia xem. Tỳ khưu nào biểu diễn thần thông, Tỳ khưu ấy phạm giới tác ác (dukkaṭa). Sau đó, Đức Phật truyền dạy đập bể cái bát trầm ra từng mảnh nhỏ, tán mịn làm thuốc nhỏ mắt cho Tỳ khưu đau mắt. 7- Hạ thứ bảy: Đức Phật ngự lên cung trời Tam Thập Tam Thiên, để an cư nhập hạ suốt 3 tháng [2] trong mùa mưa, thuyết giảng Abhidhammapiṭaka (Tạng Vi Diệu Pháp) gồm có 7 bộ lớn: Bộ Dhammasaṅgaṇī, bộVibhaṅga, bộ Dhatukathā, bộ Puggalapaññatti, bộ Kathāvatthu, bộ Yamaka và bộ Paṭṭhāna để tế độ Phật Mẫu (kiếp hiện tại là một thiên nam Santussita hóa sinh ở cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên), chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, cùng vô số chư thiên, phạm thiên chứng đắc thành bậc Thánh thấp hoặc cao tùy theo ba-la-mật của họ. Vào ngày 15 tháng 9, Đức Phật từ cõi trời Tam Thập Tam Thiên trở về cõi người tại cổng thành xứ Saṅkassa, chư Đại đức Tỳ khưu Tăng, chư Tỳ khưu ni Tăng, cận sự nam, cận sự nữ đông đảo đón rước Đức Phật. 8- Hạ thứ tám: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa trong khu rừng Bhesakaḷavana vùng Bhaggajanapada để tế độ dân chúng thành Susumāragira. 9- Hạ thứ chín: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Ghositārama gần kinh thành Kosambi. 10- Hạ thứ mười: Hai nhóm Tỳ khưu xứ Kosambi cãi cọ nhau, Đức Phật khuyên giải nhưng họ không chịu nghe lời, nên Ngài ngự vào khu rừng Pālileyyaka an cư nhập hạ một mình, suốt 3 tháng mùa mưa. Khu rừng Pālileyyaka ở khoảng giữa kinh thành Kosambi và kinh thành Sāvatthi. 11- Hạ thứ mười một: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng ngự đến tỉnh lỵ Dakkhiṇagiri, rồi an cư nhập hạ tại ngôi chùa Dakkhiṇagiri, gần xóm nhà Bàlamôn Ekanāḷa để tế độ ông Bàlamôn tên Kasibhāradvāja xuất gia trở thành Tỳ khưu; Tỳ khưu Kasibhāradvāja tiến hành thiền tuệ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán. 12- Hạ thứ mười hai: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bàlamôn Verañja. Trong lúc ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì, thiếu thốn vật thực, cho nên chư Tỳ khưu đi khất thực không được vật thực. Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư Tỳ khưu đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước bố thí cúng dường lúa là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày dâng cúng dường đến Đức Phật cùng chư Tỳ khưu; đặc biệt dâng cúng dường Đại đức Ānanda những món bơ, mật ong, đường..., để Đại đức Ānanda làm vật thực dâng cúng lên Đức Phật. Trong 3 tháng an cư nhập hạ đó, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng gạo đỏ (đó là một trong những quả ác nghiệp cũ của Đức Phật còn dư sót chút đỉnh, và cũng có thể làm ảnh hưởng đến chư Tỳ khưu gần gũi với Đức Phật). 13- Hạ thứ mười ba: Đức Phật an cư nhập hạ tại một ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu, trong xứ Cāliya. Từ hạ đầu tiên cho đến hạ thứ mười ba này, Đức Phật chưa có một vị Tỳ khưu nào là thị giả thường trực chăm sóc phục vụ Đức Phật, khi thì vị Tỳ khưu này, khi thì vị Tỳ khưu khác thay đổi nhau phục vụ Đức Phật. Trong mùa hạ này, vị Tỳ khưu Meghiya là thị giả của Đức Phật. Một hôm, vị Tỳ khưu đi khất thực trong xóm Jantu, nhìn thấy ngoài vườn xoài bên bờ sông, một cảnh đẹp thiên nhiên, yên tĩnh, đáng hài lòng, Ngài muốn đến nơi đó để hành đạo. Khi trở về, Tỳ khưu Meghiya vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài cho phép đi đến nơi đó để hành đạo theo ý muốn của mình. Đức Phật quán xét thấy chưa hợp thời, nên dạy rằng: - Này con, con nên chờ có một vị Tỳ khưu khác đến thay thế con, rồi con hãy đi. Tuy vậy, Tỳ khưu Meghiya vẫn năn nỉ xin đi, Đức Phật khuyên dạy 3 lần mà Tỳ khưu Meghiya không chịu nghe lời, biết ngăn không được, nên Đức Phật đành phải cho phép. Tỳ khưu Meghiya đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ra đi, để Đức Phật ở lại một mình trên núi Cāliya. Khi Tỳ khưu Meghiya đến vườn xoài ngồi hành đạo, thì tâm tà tư duy phát sinh, làm cho tâm nóng nảy, bực bội nên không thể tiến hành thiền định, không thể tiến hành thiền tuệ. Tỳ khưu Meghiya trở về hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, người xuất gia với đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, khi tà tư duy, bất thiện pháp phát sinh làm trở ngại sự tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ; vậy cần phải có những pháp nào để diệt trừ tà tư duy, hỗ trợ cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Bạch Ngài. Đức Phật dạy rằng: - Này Meghiya, người chưa diệt được phiền não trầm luân thì cần phải có 5 pháp:
Đó là 5 pháp diệt tà tư duy, để hỗ trợ cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ, dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi. Tỳ khưu Meghiya vâng lời dạy của Đức Phật. Về sau không lâu, Ngài tiến hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán. 14- Hạ thứ mười bốn: Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi. Trong mùa hạ này, Sadi Rāhula tròn đủ 20 tuổi được nâng lên bậc Tỳ khưu, do Ngài Đại đức Sāriputta là Thầy tế độ (upajjhāya) và Ngài Đại đức Mahāmoggallāna là Thầy tụng Tuyên ngôn và Thành sự ngôn (ācariya) Đức Phật biết rõ Tỳ khưu Rāhula có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật, nên Ngài dự định thuyết pháp tế độ Tỳ khưu Rāhula diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân. Hôm ấy, sau khi ngự đi khất thực trong kinh thành Sāvatthi trở về, Đức Phật truyền dạy Tỳ khưu Rāhulađem tọa cụ (tấm vải lót ngồi) đi vào rừng ở phía Nam kinh thành Sāvatthi để nghỉ trưa. Vô số chư thiên, phạm thiên cùng đi theo Tỳ khưu Rāhula, do biết rằng Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ Đại đức Rāhula để diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân. Đức Phật thuyết bài kinh Cūḷarāhulovādasutta: Kinh dạy Tỳ khưu Rāhula trẻ. Sau khi lắng nghe xong bài kinh, Tỳ khưu Rāhula chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Arahán cùng vơí Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông, đồng thời có vô số chư thiên, phạm thiên cũng chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, bậc Thánh Arahán tùy theo ba-la-mật của họ. 15- Hạ thứ mười lăm: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh thành Kapilavatthu. Đức vua Mahānāma thuộc dòng tộc Sakya đã xây cất chỗ ở để dâng cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì. Đức Phật thuyết pháp nói về quả báu cao quý của sự bố thí chỗ ở đến chư Tỳ khưu Tăng. 16- Hạ thứ mười sáu: Sau khi Đức Phật đã tế độ được dạ xoa Aḷavaka rất hung dữ hơn cả ma vương. Dạ xoa Aḷavaka đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Sau đó Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi tháp Aggāḷava trong xứ Āḷavī, để tế độ Đức vua Aḷavaka cùng dân chúng trong xứ. 17- Hạ thứ mười bảy: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veluvana gần kinh thành Rājagaha. 18 -19 Hạ thứ mười tám và mười chín: Đức Phật ngự đi thuyết pháp tế độ chúng sinh có duyên lành nên tế độ khắp mọi nơi. Khi gần đến mùa mưa, Đức Phật ngự đến ngôi chùa trên núi Cāliya gần xóm nhà Jantu trong xứ Cāliya an cư nhập hạ suốt 3 tháng trong mùa mưa. 20- Hạ thứ hai mươi: Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Veluvana, gần kinh thành Rājagaha. Từ hạ đầu tiên đến đầu hạ thứ hai mươi, Đức Phật chưa có một vị Tỳ khưu nào làm thị giả thường trực để lo chăm sóc phục vụ Ngài; khi thì vị Tỳ khưu này, khi thì vị Tỳ khưu khác: Các vị Tỳ khưu như Tỳ khưu Nāgasamāla, Tỳ khưu Nāgita, Tỳ khưu Upavāṇa, Tỳ khưu Sunakkhatta, Tỳ khưu Cunda, Tỳ khưu Sāgata, Tỳ khưu Meghiya... thay đổi nhau làm phận sự phục vụ Đức Phật; chưa có một Tỳ khưu nào gọi là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc Đức Phật; cho nên, đôi khi Đức Phật ngự đi khất thực một đường, vị Tỳ khưu ôm bát theo Đức Phật lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Đức Phật xuống đất rồi đi theo ý của mình, hoặc đôi khi có vị Tỳ khưu đang phục vụ Đức Phật, thì xin đi hành đạo một nơi khác, chỉ còn lại một mình Đức Phật, không có vị Tỳ khưu nào lo chăm sóc phục vụ cho Ngài. Trong mùa hạ này, một hôm, Đức Phật đang ngự tại cốc Gandhakuṭi, khi ấy chư Đại đức Tỳ khưu Tăng đến tụ hội xung quanh nơi Đức Phật, Ngài truyền dạy rằng: - Này chư Tỳ khưu, nay Như Lai đã lớn tuổi rồi (55 tuổi), các Tỳ khưu đến chăm sóc, phục vụ Như Lai; đôi khi Như Lai đi khất thực một đường, vị Tỳ khưu ấy mang bát theo Như Lai lại muốn đi con đường khác, nên để bát của Như Lai xuống đất rồi đi theo ý của mình.... Này chư Tỳ khưu, các con nên chọn một vị Tỳ khưu làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc, phục vụ Như Lai. Khi lắng nghe Đức Phật truyền dạy như vậy, Đại đức Sāriputta đảnh lễ Đức Thế Tôn chắp hai tay bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin được làm thị giả thường trực hằng ngày, hằng đêm lo chăm sóc phục vụ Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn không chấp thuận theo lời xin của Đại đức Sāriputta. Tiếp đến Đại đức Māhāmoggallāna bạch xin, Đức Thế Tôn cũng không chấp thuận. Theo tuần tự các chư Đại Thanh Văn đều xin, Đức Thế Tôn cũng không chấp thuận một vị nào cả. Duy chỉ còn Đại đức Ānandađang ngồi im lặng. Chư Đại đức Tỳ khưu động viên khuyến khích Đại đức Ānanda bạch xin làm thị giả thường trực hằng ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức Thế Tôn. Khi ấy, Đại đức Ānanda đảnh lễ Đức Thế Tôn chắp hai tay bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin Ngài tám đặc ân, nếu Ngài ban cho con đủ tám đặc ân ấy, thì con sẽ xin làm thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Ngài. Bốn đặc ân khước từ
Đức Phật truyền hỏi rằng: - Này Ānanda, con xét thấy bất lợi như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khước từ như vậy? - Kính bạch Đức Thế Tôn, con muốn tránh những lời gièm pha của người khác cho rằng: Con xin làm thị giả thường trực của Đức Thế Tôn để mong được y tốt, vật thực ngon lành, ở chung với Đức Thế Tôn, được đi theo Đức Thế Tôn đến nhà thí chủ thỉnh mời Ngài. Đức Thế Tôn chấp thuận theo bốn đặc ân khước từ ấy của Đại đức Ānanda. Bốn đặc ân khẩn khoản
Đức Phật truyền hỏi rằng: - Này Ānanda, con xét thấy những điều lợi ích như thế nào, mà con xin bốn đặc ân khẩn khoản như vậy? - Kính bạch Đức Thế Tôn, Đặc ân thứ nhất: Những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo đến hầu thỉnh Đức Thế Tôn, mà không gặp được Ngài, con có thể thay mặt nhận lời thỉnh mời của họ. Nếu Đức Thế Tôn không ngự đi đến nơi đó, thì họ sẽ nghĩ rằng: “Con là người thị giả thường trực của Đức Thế Tôn, vậy mà họ chỉ nhờ việc thỉnh mời Đức Thế Tôn cũng không giúp được”. Đặc ân thứ nhì: Những người từ các phương xa đến hầu Đức Thế Tôn, nếu họ không có cơ hội hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn để nghe pháp, thì họ sẽ nghĩ rằng: "Chúng ta từ phương xa đến, có ý nguyện hầu Đức Thế Tôn, nghe Ngài thuyết pháp; nhưng vị Tỳ khưu thị giả của Đức Thế Tôn cũng không giúp cho chúng ta được có cơ hội ấy”. Như vậy, họ sẽ giảm đức tin nơi Tam Bảo. Đặc ân thứ ba: Khi con nghe pháp của Đức Thế Tôn, có pháp nào chưa hiểu rõ, con xin hỏi lại pháp ấy, Đức Thế Tôn giảng giải cho con được hiểu rõ, thì con được thuận lợi cho việc tiến hành thiền tuệ của con. Đặc ân thứ tư: Có người hỏi con rằng: “Bài kinh này, pháp này, tiền thân này... Đức Thế Tôn giảng nơi nào, có ý nghĩa như thế nào?” Nếu con trả lời với họ “Tôi không biết”, thì họ sẽ nghĩ rằng: “Đại đức Ānanda là thị giả của Đức Thế Tôn, vậy mà bài kinh ấy, pháp ấy, tiền thân ấy... cũng không biết”. Do đó, con cần phải biết những bài kinh ấy, những pháp ấy, những tiền thân ấy... để trả lời cho họ hiểu rõ. Sau khi nghe Đại đức Ānanda giải thích ý nghĩa của mỗi đặc ân, Đức Phật chấp thuận đủ tám đặc ân của Đại đức Ānanda. Bắt đầu từ thời gian ấy, Đại đức Ānanda chính thức là thị giả thường trực ngày đêm lo chăm sóc phục vụ Đức Thế Tôn, cho đến lúc Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn. Sở dĩ, Đại đức Ānanda được địa vị thị giả thường trực của Đức Phật Gotama, là vì tiền kiếp của Ngài đã từng phát nguyện muốn trở thành một thị giả thường trực của Đức Phật; lời phát nguyện ấy được Đức Phật Padumuttara, trong thời quá khứ đã thọ ký và Ngài cũng đã tạo ba-la-mật suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất. 21 - 44 Hạ thứ hai mươi mốt đến hạ thứ bốn mươi bốn 45 hạ của Đức Phật chia ra 2 thời kỳ: * Thời kỳ đầu: Kể từ hạ đầu tiên đến hạ thứ 20, mỗi hạ Đức Phật an cư nhập hạ nơi nào, tế độ cho chúng sinh nào được ghi chép lại rõ ràng. * Thời kỳ cuối: Kể từ hạ thứ 21 đến hạ thứ 44, Đức Phật an cư nhập hạ một trong hai ngôi chùa. Khi thì tại ngôi chùa Jetavana, khi thì tại ngôi chùa Pubhārama gần kinh thành Sāvatthi. Sau khi mãn hạ, Đức Phật thường ngự đi thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành nên tế độ dù gần, dù xa trong cõi người, hoặc cõi trời dục giới, sắc giới. Khi đến gần mùa mưa, Đức Phật trở lại kinh thành Sāvatthi, an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana, hoặc tại ngôi chùa Pubhārama. Bởi vì, Đức vuaPasenadi Kosala ở kinh thành Sāvatthi, là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có tâm tôn kính Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Đặc biệt, có hai đại thí chủ là ông phú hộ Anāthapiṇḍika và bà đại thí chủVisākhā, trong nhà của hai thí chủ này hằng ngày luôn có sắp đặt sẵn 500 chỗ ngồi để đón rước chư Đại đức Tỳ khưu Tăng đến khất thực. Và phần đông dân chúng trong kinh thành Sāvatthi là những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hoan hỷ trong việc bố thí cúng dường bốn thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu Tăng. Do đó, khi Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana, hoặc tại ngôi chùa Pubhārama, thì có số đông chư Đại đức Tỳ khưu Tăng cũng an cư nhập hạ tại một trong hai ngôi chùa này, và các nơi gần kinh thành Sāvatthi, để chư Tỳ khưu có được nhiều điều thuận lợi, nhất là bốn thứ vật dụng, trong suốt mùa an cư nhập hạ. Cho nên, việc tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ của chư Tỳ khưu được thuận lợi và dễ dàng phát triển. 45- Hạ thứ bốn mươi lăm: Hạ cuối cùng Đức Phật an cư nhập hạ tại ngôi làng nhỏ Veḷuvagāma, gần kinh thành Vesāli, Ngài cho phép chư Đại đức Tỳ khưu nhập hạ quanh làng gần Đức Phật, để cho tiện việc đến tụ hội nghe lời giáo huấn của Ngài. Bởi vì, Ngài biết rõ rằng chỉ còn khoảng 10 tháng nữa, Ngài sẽ tịch diệt Niết Bàn. Trong mùa an cư nhập hạ này, Đức Phật lâm bệnh trầm trọng, tưởng chừng như sắp tịch diệt Niết Bàn, nhưng Ngài suy nghĩ rằng: “Như Lai chưa truyền dạy cho thị giả Ānanda, cùng chư Tỳ khưu Tăng biết, mà tịch diệt Niết Bàn đó là điều không nên”. Do đó, Ngài cố nhẫn nại chịu đựng thọ khổ, rồi nhập Arahán Quả. Nhờ vậy, bệnh tình của Ngài được thuyên giảm. Sau khi khỏi bệnh được không lâu, Đức Thế Tôn ngự ra khỏi cốc đến ngồi chỗ đã trải sẵn, Đại đức Ānandađảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, nhìn thấy Ngài khỏi bệnh, con hoan hỷ quá! Kính bạch Đức Thế Tôn, khi con thấy Ngài lâm bệnh trầm trọng, con có cảm giác toàn thân nặng nề, tâm con tăm tối, mờ mịt không còn biết rõ phương hướng, pháp hành tứ niệm xứ cũng không còn hiện rõ trong tâm con, bởi vì bệnh tình trầm trọng của Đức Thế Tôn. Nhưng có một điều mà con tự an ủi rằng: Đức Thế Tôn chưa có lời di chúc đến chư Tỳ khưu Tăng, thì có lẽ Ngài chưa tịch diệt Niết Bàn. Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Ānanda, chư Tỳ khưu còn hy vọng gì nơi Như Lai nữa? Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng không hề phân biệt người thân bên trong, kẻ sơ bên ngoài, Như Lai không giống như các vị thầy khác, giấu các yếu pháp để chờ đến lúc trước khi lâm chung mới truyền lại cho người học trò tín cẩn. Này Ānanda, vị Thầy nào nghĩ rằng: “Ta là người lãnh đạo nhóm chư Tỳ khưu Tăng, và nhóm chư Tỳ khưu Tăng nương nhờ nơi ta”, thì vị Thầy ấy mới có lời di chúc đến nhóm chư Tỳ khưu Tăng ấy. Này Ānanda, Như Lai không nghĩ rằng: “Như Lai là người lãnh đạo nhóm chư Tỳ khưu Tăng, và nhóm chư Tỳ khưu Tăng nương nhờ nơi Như Lai”. Như vậy, tại sao Như Lai lại có lời di chúc đến chư Tỳ khưu Tăng. Này Ānanda, bây giờ Như Lai đã đến thời lão niên rồi, tuổi đã cao, được 80 tuổi [3] rồi! Ví như chiếc xe cũ, sử dụng được là phải nhờ sửa chữa như thế nào, thì sắc thân của Như Lai cũng như thế ấy, luôn luôn cần được sửa chữa bằng cách nhập Arahán Thánh Quả. Này Ānanda, khi nào Như Lai nhập Arahán Thánh Quả có đối tượng vô hiện tượng Niết Bàn diệt được các pháp trong tam giới, hưởng pháp vị an lạc Niết Bàn Siêu tam giới, khi ấy Như Lai mới thật sự được an lạc. Cho nên, các con nên sống có ta [4] làm hòn đảo (trong biển khổ), có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là có chánh pháp làm hòn đảo, có chánh pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Này Ānanda, vì vậy, hiện tại Như Lai còn tại thế, cũng như trong vị lai, khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn, chư Tỳ khưu cũng là người sống có ta làm hòn đảo, có ta làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Nghĩa là Tỳ khưu sống có chánh pháp làm hòn đảo, có chánh pháp làm nơi nương nhờ, không nên sống nương nhờ nơi nào khác. Tỳ khưu ấy tiến hành tứ niệm xứ, sẽ là người cao thượng. Đức Thế Tôn an cư nhập hạ tại nơi đây suốt 3 tháng, đây là hạ cuối cùng của Ngài. Những ngày tháng cuối cùng của Đức Phật Sau khi mãn hạ, Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng trở lại kinh thành Sāvatthi, ngự tại ngôi chùa Jetavana. Ngài Đại đức Sāriputta tịch diệt Niết Bàn Ngài Đại đức Sāriputta tư duy rằng: Chư Phật với bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn, vị nào sẽ tịch diệt Niết Bàn trước? Ngài biết rõ rằng: Bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn tịch diệt Niết Bàn trước Đức Phật. Ngài quán xét về tuổi thọ của Ngài, biết rõ tuổi thọ của Ngài chỉ còn 7 ngày nữa. Đại đức Sāriputta liền đến để đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, xin phép đi tịch diệt Niết Bàn. Đức Phật bèn hỏi Đại đức Sāriputta rằng: - Này Sāriputta, con sẽ tịch diệt Niết Bàn tại nơi nào? Ngài Đại đức Sāriputta bạch với Đức Thế Tôn: - Kính bạch Đức Thế Tôn, con sẽ tịch diệt Niết Bàn tại ngôi làng Nālākagāma xứ Magadha nơi con đã sinh trưởng, đồng thời để tế độ cho thân mẫu của con. Tuy bà có bảy người con thành bậc Thánh Arahán, song bà vẫn chưa có đức tin nơi Tam Bảo. Ngài Đại đức Sāriputta cùng 500 đệ tử đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin phép từ giã Đức Phật. Ngài trở về lại ngôi nhà, ở tại căn phòng xưa của mình. Trong đêm cuối cùng của cuộc đời, Ngài phát bệnh kiết lỵ đi ngoài, phân lẫn nhiều máu, bệnh tình rất trầm trọng. Khi ấy, bà thân mẫu của Ngài đứng nhìn qua căn phòng của Ngài, thấy Tứ Đại Thiên Vương có hào quang sáng ngời đến chiêm bái đảnh lễ Ngài lần cuối cùng, rồi lui ra. Tiếp đến, Đức vua trời Sakka từ cõi Tam Thập Tam Thiên đến chiêm bái đảnh lễ Ngài, rồi lui ra. Tuần tự các Đức vua ở cõi Dạ Ma Thiên, Đức vua cõi Đẩu Suất Đà Thiên, Đức vua cõi Hóa Lạc Thiên, Đức vua cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên trong các cõi trời dục giới và tiếp đến chư Đại Phạm Thiên cõi trời sắc giới cũng đều đến chiêm bái đảnh lễ Ngài lần cuối cùng. Bà thân mẫu của Ngài nhìn thấy chư thiên, Đại Phạm Thiên có hào quang sáng ngời, vị sau hơn vị trước, bà muốn biết những vị chư thiên ấy là vị nào, mà có lòng tôn kính con của bà đến như thế! Nên bà đến phòng của Ngài, hỏi Đại đức Cunda (con trai của bà) rằng: - Này Cunda, các vị chư thiên nào mà có lòng tôn kính đến chiêm bái đảnh lễ sư huynh của con như vậy? Đại đức Cunda thưa rằng: - Thưa thân mẫu, bốn vị chiêm bái, đảnh lễ đầu tiên đó là Tứ Đại Thiên Vương. Bà nghĩ thầm: “Tứ Đại Thiên Vương có lòng tôn kính chiêm bái, đảnh lễ con ta; con ta cao thượng như vậy sao! Nếu vậy, thì Đức Phật là Bậc Thầy của con ta chắc chắn Ngài còn cao thượng hơn nhiều”. Và bà hỏi tiếp: - Này Cunda, còn các vị chư thiên khác là vị nào vậy? Đại đức Cunda thưa tiếp: - Thưa thân mẫu, kế đến là Đức vua trời Sakka từ cõi trời Tam Thập Tam Thiên, Đức vua trời Sujāma cõi trời Dạ Ma Thiên, Đức vua trời Santussita cõi trời Đẩu Suất Đà Thiên, Đức vua trời Sunimmita cõi trời Hóa Lạc Thiên, Đức vua trời Paranimmita từ cõi trời Tha Hóa Tự Tại Thiên, và tiếp đến Chư Đại Phạm Thiên từ các tầng trời sắc giới... Nghe vậy bà thầm nghĩ rằng: “Đại Phạm Thiên mà ta tôn kính, chư Đại Phạm Thiên ấy lại có lòng tôn kính, chiêm bái đảnh lễ con của ta, con ta cao thượng đến như vậy sao! Nếu vậy, Đức Phật là Bậc Thầy của con ta, chắc chắn Ngài còn cao thượng biết dường nào!” Nghĩ vậy, bà phát sinh tâm hỷ lạc chưa từng có, bà ân cần thăm hỏi bệnh tình của Ngài Sāriputta và bày tỏ ý nghĩ của mình. Ngài Đại đức Sāriputta biết đúng lúc hợp thời, nên Ngài thuyết giảng về Ân đức Phật để tế độ thân mẫu của Ngài. Sau khi lắng nghe pháp xong, bà liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu có đức tin trong sạch vững chắc nơi Tam Bảo. Ngài Đại đức Sāriputta suy tư rằng: “Nay ta đã đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của thân mẫu”. Khi ấy, sắp rạng đông, Ngài Đại đức Sāriputta bảo Đại đức Cunda, cho truyền gọi chư Tỳ khưu đến tụ hội đông đủ, rồi đỡ Ngài ngồi dậy và Ngài dạy rằng: - Này chư hiền giả, quý vị đã theo tôi suốt 44 năm, nếu tôi có làm điều gì, có nói lời nào làm phật lòng quý vị; nay xin quý vị hiền giả hãy bỏ lỗi cho tôi. Chư Tỳ khưu bạch rằng: - Kính bạch Đại đức, Ngài là vị Thầy khả kính, khả ái của chúng con; chúng con không chấp một điều gì cả; và chúng con đã theo Ngài như bóng theo hình, suốt 44 năm qua, nếu chúng con có làm điều gì, có nói lời nào làm phật lòng Ngài; thì nay kính xin Ngài từ bi tha thứ cho chúng con. Bạch Ngài. Sau buổi lễ chân thành sám hối lẫn nhau, vào ngày rằm tháng 10 (âm lịch) Ngài Đại đức Sāriputta tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, ngay khi ấy đồng thời trái đất cũng tự nhiên rùng mình chuyển động. Sau khi lễ hỏa táng thi thể Ngài Đại đức Sāriputta xong, Đại đức Cunda thỉnh Xá lợi của Ngài Sāriputta đến dâng Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana, Đức Thế Tôn truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ Xá lợi Ngài Sāriputta tại kinh thành Sāvatthi. Ngài Māhāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn Sau khi Ngài Đại đức Sāriputta tịch diệt Niết Bàn, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng từ kinh thành Sāvatthingự đến kinh thành Rājagaha, ngự tại ngôi chùa Veluvana. Khi ấy, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna đang trú tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha, nhóm ngoại đạo thuê mướn nhóm cướp vây đánh Ngài, đã biết bao lần Ngài đều lẫn tránh được; lần cuối cùng Ngài quán xét thấy nghiệp ác cũ đến thời kỳ cho quả, nên Ngài nhẫn nại chịu đựng để nhóm cướp đánh đập Ngài tan xương nát thịt. Chúng tưởng Ngài đã chết nên ném xác Ngài vào bụi cây rồi bỏ đi. Ngài vận dụng thần thông liên kết xương thịt lại, bay đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xin phép tịch diệt Niết Bàn. Ngài Đại đức Mahāmoggallāna tịch diệt Niết Bàn vào ngày 30 tháng 10 (âm lịch), tại làng Kaḷasilā trong xứ Magadha. Lễ hỏa táng xong, Đức Phật truyền dạy xây ngôi tháp tôn thờ Xá lợi Ngài Mahāmoggallāna tại kinh thành Rājagaha. Như vậy, trong tháng 10 (âm lịch) năm ấy hai vị Thánh Tối Thượng Thanh Văn đã tịch diệt Niết Bàn. Đức Thế Tôn cùng chư Tỳ khưu Tăng từ kinh thành Rājagaha du hành đến kinh thành Vesāli. Một hôm, Đức Thế Tôn ngự vào thành Vesāli khất thực, sau khi thọ thực xong Đức Phật dạy bảo Đại đức Ānandacùng ngự đến ngôi tháp Cāpālacetiya. Sau khi Đức Thế Tôn ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn, Đại đức Ānandađảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Ānanda, bậc nào đã thường tiến hành 4 pháp thành tựu (idhipāda), đã tiến hành trở thành thuần thục, đã tiến hành trở thành nền tảng vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh tấn không ngừng tiến hành 4 pháp thành tựu này. Này Ānanda, bậc ấy có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ hoặc hơn kiếp tuổi thọ như ý. Này Ānanda, Như Lai đã thường tiến hành 4 pháp thành tựu, đã tiến hành trở thành thuần thục, đã tiến hành trở thành nền tảng vững chắc, có căn bản, đã luyện tập thành thói quen hằng ngày, thường tinh tấn không ngừng tiến hành 4 pháp thành tựu này. Này Ānanda, Như Lai cũng có khả năng duy trì trọn kiếp tuổi thọ (100 năm) hoặc hơn kiếp tuổi thọ (hơn 100 năm) vậy. Đức Thế Tôn đã dạy gián tiếp như vậy, mà Đại đức Ānanda không hiểu, nên không thỉnh mời Đức Thế Tôn rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài duy trì suốt kiếp tuổi thọ (100 năm). Kính xin Ngài duy trì trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự an lạc phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên và nhân loại. Bởi vì, khi ấy Đại đức Ānanda bị Ma vương quấy nhiễu, nên không hiểu ý của Đức Thế Tôn. Dù Đức Thế Tôn dạy như vậy lần thứ hai, lần thứ ba, Đại đức Ānanda vẫn không hiểu được; Ngài đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép đi ra ngoài ngồi dưới gốc cây không xa nơi Đức Thế Tôn. Ma vương thỉnh Đức Phật tịch diệt Niết Bàn Khi Đại đức Ānanda vừa mới ra ngoài, Ác Ma Thiên liền đến hầu Đức Thế Tôn, rồi đứng một nơi hợp lẽ và bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài tịch diệt Niết Bàn, kính xin Ngài tịch diệt Niết Bàn ngay bây giờ! Bây giờ là lúc tịch diệt Niết Bàn của Ngài. Thật ra, Ác Ma Thiên đã nhiều lần đến thỉnh Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn, những lần trước Đức Thế Tôn đều khước từ. Nhưng lần này, Đức Thế Tôn hứa với Ác Ma Thiên rằng: - Này Ác Ma Thiên, ngươi hãy yên tâm, không lâu nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn. Kể từ nay chỉ còn ba tháng nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn. Như vậy, Đức Thế Tôn có trí tuệ sáng suốt, xác định thời gian ba tháng nữa sẽ xả tuổi thọ, sinh mạng của Ngài, tại ngôi Tháp Cāpālacetiya, đó là vào ngày rằm tháng giêng (âm lịch). Ngay khi ấy, trái đất rùng mình chuyển động. Đại đức Ānanda thấy điều lạ thường, trái đất rung chuyển nên vào hầu Đức Thế Tôn, bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, do nguyên nhân nào làm trái đất rung chuyển, bạch Ngài. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Ānanda, ngay hôm nay, vừa rồi, Như Lai có trí tuệ sáng suốt hứa với Ác Ma Thiên rằng: “Chỉ còn ba tháng nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn”. Nghe như vậy, Đại đức Ānanda kính thỉnh rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin kính thỉnh Ngài duy trì tuổi thọ trọn kiếp tuổi thọ (100 năm). Con xin kính thỉnh Ngài duy trì tuổi thọ trọn kiếp tuổi thọ, để tế độ cho phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự an lạc phần đông chúng sinh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên và nhân loại. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Ānanda, con chớ nên thỉnh Như Lai nữa; bây giờ không phải lúc thỉnh cầu Như Lai nữa. Như Lai đã gián tiếp dạy con nhiều lần mà con vẫn không hiểu, con không có lời thỉnh cầu Như Lai. Nay Như Lai đã hứa với Ác Ma Thiên rồi, không thể nào khác được. Đại đức Ānanda cảm thấy buồn vô hạn, hối hận về điều sơ suất của mình, nên Đức Thế Tôn an ủi Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, Như Lai đã từng dạy rằng: “Sống xa lìa nhau, chết biệt ly với những người thân yêu, các bậc kính mến ấy, đó là điều hiển nhiên. Do đó, làm sao lại có thể, có những người thân yêu, các bậc kính mến ấy theo ý muốn của mình được!”. Những pháp nào đã sinh rồi, hiện hữu rồi, do nhân duyên cấu tạo rồi, chắc chắn có sự hủy hoại là thường, dù có mong muốn rằng: “xin pháp ấy đừng hủy hoại”, đó là điều không thể nào có được. Này Ānanda chúng ta cùng nhau đến giảng đường Kuṭāgāra trong khu rừng lớn. Đại đức Ānanda theo sau Đức Thế Tôn đến giảng đường Kuṭāgāra. Khi ấy, Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Ānanda, con nên đi mời tất cả chư Tỳ khưu trong thành Vesāli đến tụ hội tại giảng đường Upaṭṭhāna. Đại đức Ānanda vâng theo lời dạy Đức Thế Tôn đi mời chư Tỳ khưu. Sau đó, Ngài Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, chư Tỳ khưu Tăng đã đến tụ hội đông đủ tại giảng đường Upaṭṭhāna, con xin kính thỉnh Ngài. Chánh pháp căn bản, 37 pháp chứng đắc Thánh Đạo Đức Thế Tôn ngự đến giảng đường, ngồi trên chỗ cao quý, truyền dạy chư Tỳ khưu Tăng rằng: - Này chư Tỳ khưu, chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Chánh pháp ấy, các con nên học hỏi hiểu biết rõ, rồi nên thực hành, thường tiến hành pháp ấy, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, để duy trì phạm hạnh cao thượng, để chánh pháp được trường tồn lâu dài, để đem lại sự lợi ích, sự an lạc cho phần đông chúng sinh, để tế độ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho chư thiên và nhân loại. Này chư Tỳ khưu, chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn đó là: 4 pháp niệm xứ (satipaṭṭhāna): Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. 4 pháp tinh tấn (samappadhāna): Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh, tinh tấn ngăn không cho ác pháp phát sinh, tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh, tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh. 4 pháp thành tựu (idhipāda): Thành tựu do hài lòng, thành tựu do tinh tấn, thành tựu do quyết tâm, thành tựu do trí tuệ. 5 pháp chủ (indriya): Tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ. 5 pháp lực (bala): Tín pháp lực, tấn pháp lực, niệm pháp lực, định pháp lực, tuệ pháp lực. 7 pháp giác chi (bojjhaṅga): Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi, xả giác chi. 8 pháp chánh đạo (magga): Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. - Này chư Tỳ khưu, chánh pháp này mà Như Lai đã thuyết giảng đến các con, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Này chư Tỳ khưu, bây giờ Như Lai nhắc nhở các con rằng: “Tất cả các pháp hữu vi (danh pháp - sắc pháp) có sự hoại là thường, các con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ. Thời gian không lâu, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn, kể từ hôm nay còn 3 tháng nữa, Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn”. Tiếp theo Đức Thế Tôn dạy bài kệ: “Paripakko vayo mayhaṃ Ý nghĩa: Tuổi của Như Lai đã già rồi Từ kinh thành Vesāli đến xứ Kusinārā Một buổi sáng, Đức Thế Tôn ngự vào kinh thành Vesāli để khất thực, sau khi thọ thực xong trở về, Đức Thế Tôn đứng nhìn kinh thành Vesāli lần cuối cùng, rồi dạy bảo Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, chúng ta đến làng Bhaṇḍagāma. Đức Thế Tôn cùng số đông chư Tỳ khưu Tăng ngự đến làng Bhaṇḍagāma. Tại nơi đây Ngài thuyết pháp khuyên dạy chư Tỳ khưu một thời gian ngắn, rồi tiếp tục ngự đến làng Ambagāma, làng Jambagāma, thành Bhoganagara, tại mỗi nơi Đức Thế Tôn thuyết pháp khuyên dạy chư Tỳ khưu, rồi tiếp tục ngự đến thànhPāvānagara. Khi ấy, Đức Thế Tôn ngự tại vườn xoài (ambavana) của ông Cunda Kammāraputta. Ông Cunda nghe tin Đức Thế Tôn cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng đã ngự đến thành Pāvānagara, hiện đang trú tại vườn xoài của ông. Ông đến đảnh lễ hầu Đức Thế Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ ông Cunda, ông Cunda phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tâm vô cùng hoan hỷ theo lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, khi ấy ông kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bèn bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, ngày mai kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng nhận thọ thực tại tư gia của chúng con. Bạch Ngài. Đức Thế Tôn thọ nhận bằng cách im lặng. Biết Đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh mời của mình, nên ông Cunda cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin phép trở về nhà. Đức Thế Tôn thọ thực món sūkuramaddava Ông Cunda Kammāraputta sai bảo gia nhân làm những món ăn ngon, trong đó có món ăn đặc biệt gọi là sūkuramaddava: ekajeṭṭhakasūkurassa pavattamaṃsa nghĩa là món thịt heo chín mềm ngon bổ đặc biệt nhất. Đêm đã qua, buổi sáng hôm ấy Đức Thế Tôn cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng ngự đến tư thất của ông Cunda, ông cung kính thỉnh mời Đức Thế Tôn ngồi chỗ cao quý nhất; còn tất cả chư Đại đức Tỳ khưu Tăng ngồi chỗ đã trải sẵn. Ông cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, và kính dâng món ăn đặc biệt sūkuramaddava ấy. Đức Thế Tôn truyền dạy rằng: - Này Cunda, con dâng món sūkuramaddava [6] này chỉ đến một mình Như Lai mà thôi, con nên dâng những món ăn khác đến chư Tỳ khưu Tăng. Món sūkuramaddava còn lại, con nên đem đi chôn dưới đất. Bởi vì, ngoại trừ Như Lai ra, Như Lai không thấy có một người nào trong đời này, gồm cả Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương cõi trời dục giới dùng món sūkuramaddava này rồi có thể tiêu hóa được. Ông Cunda vâng theo lời của Đức Thế Tôn đem món sūkuramaddava còn lại chôn sâu dưới đất. Khi Đức Thế Tôn thọ thực xong, ông Cunda đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ ông Cunda, làm cho ông vô cùng hoan hỷ theo lời giáo huấn của Ngài. Đức Thế Tôn cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng từ giã ra đi. Sau khi thọ thực món ăn ấy xong, Đức Thế Tôn phát bệnh kiết lỵ đi ngoài ra máu, bệnh tình rất trầm trọng; Đức Thế Tôn có chánh niệm trí tuệ tỉnh giác nhập Arahán Quả, chịu đựng được thọ khổ do bệnh kiết lỵ, rồi dạy bảo Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, bây giờ chúng ta đến xứ Kusinārā. Đức Thế Tôn cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng lên đường đi xứ Kusinārā. Trên đường đi Đức Thế Tôn mệt nhoài, đến gốc cây Ngài dừng lại và truyền bảo Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda con trải tấm y Saṅghaṭi bốn lớp cho Như Lai ngồi nghỉ. Đại đức Ānanda vâng lời trải tấm y xong, Đức Thế Tôn ngồi nghỉ và truyền bảo Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, con hãy đi lấy nước cho Như Lai dùng, Như Lai khát nước lắm rồi! Đại đức Ānanda bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, vừa rồi có 500 chiếc xe bò băng qua dòng sông, vì nước sông còn ít, nên đã làm cho nước đục ngầu; gần đây có con sông Kakudhānādī nước trong sạch, bờ sông thoai thoải, Đức Thế Tôn có thể độ nước trong sạch và tắm mát trên con sông ấy. Tuy vậy, Đức Thế Tôn khát nước quá không sao chịu nổi, nên Ngài truyền bảo Đại đức Ānanda đến lần thứ hai, lần thứ ba như trên. Đại đức Ānanda đành phải vâng lời Đức Thế Tôn, Ngài vừa mang bát đến dòng sông nước còn ít ấy, nước sông đang đục ngầu liền biến thành nước trong sạch. Ngài vô cùng ngạc nhiên, lấy bát múc nước đem về bạch Đức Thế Tôn: - Kính bạch Đức Thế Tôn, thật phi thường thay! Chưa từng có bao giờ, Đức Thế Tôn có nhiều oai lực quá! Dòng nước sông còn ít và bị 500 chiếc xe bò vừa băng qua làm cho nước sông đục ngầu, khi con đến gần bỗng nhiên biến thành dòng nước trong sạch. Kính bạch Đức Thế Tôn, kính xin Ngài độ nước. Đức Thế Tôn độ nước xong liền cảm thấy đỡ khát, sau khi ngồi nghỉ cho đỡ mệt, Ngài cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng tiếp tục lên đường đến con sông Kakudhānādī. Khi đến nơi, Ngài ngự xuống dòng sông ấy tắm mát, độ nước xong Ngài ngự đi lên vườn xoài và dạy bảo Đại đức Cundaka rằng: - Này Cundaka, con hãy trải tấm y Saṅghāṭi 4 lớp để cho Như Lai nằm nghỉ ngơi. Đại đức Cundaka vâng lời trải tấm y xong, Đức Thế Tôn nằm nghiêng bên phải hai chân duỗi thẳng đặt so le, chân phải đầu gối hơi co một chút, có chánh niệm trí tuệ tỉnh giác nhập Arahán Quả. Đại đức Cundakangồi gần hầu Đức Thế Tôn. Khi xả Arahán Quả, Đức Thế Tôn gọi Ngài Đại đức Ānanda dạy rằng: - Này Ānanda, nếu có ai trách ông Cunda Kammāraputta rằng: “Thật không có lợi cho ông, ông đã làm điều không tốt! Đức Thế Tôn độ vật thực của ông, phải tịch diệt Niết Bàn”. Khi ấy con nên giảng giải cho ông Cunda hiểu rõ, để phát sinh tâm hoan hỷ, mà không có buồn rằng: “Này ông Cunda, thật là có lợi lớn cho ông! Ông đã làm điều phước thiện đặc biệt. Đức Thế Tôn độ vật thực của ông lần cuối cùng rồi tịch diệt Niết Bàn. Điều này chính bần Tăng được nghe từ kim ngôn của Đức Thế Tôn rằng: Hai lần cúng dường vật thực, có quả báu lớn bằng nhau; quả báu này lớn hơn các lần dâng cúng vật thực khác đến Như Lai: 1) Vật thực của bà Sujātā được dâng cúng dường đến Đức Bồ Tát, sau khi độ vật thực xong, đêm hôm ấy Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. 2) Vật thực của ông Cunda Kammāraputta được dâng cúng dường đến Như Lai, sau khi độ vật thực xong, đêm hôm ấy Ngài tịch diệt Niết Bàn. Vật thực được dâng cúng dường đến Như Lai trong hai trường hợp này, có quả báu lớn bằng nhau; quả báu này lớn hơn các lần dâng cúng dường vật thực khác đến Như Lai”. - Này Ānanda, con nên giảng giải cho ông Cunda Kammāraputta hiểu rõ như vậy để ông ta phát tâm hoan hỷ, mà không có buồn. Thật vậy, trong Chú giải bài kinh này dạy: * Món ăn nấu bằng sữa bò của bà Sujātā, mà Đức Bồ Tát đã độ xong, cuối đêm ấy Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn thế giới chúng sinh; nhờ món ăn đầy bổ dưỡng ấy, mà kim thân của Đức Thế Tôn có được sức chịu đựng duy trì suốt 49 ngày đêm, để hưởng sự an lạc tịch tịnh Niết Bàn. * Món ăn sūkuramaddava của ông Cunda Kammā- raputta, mà Đức Thế Tôn đã độ xong, nhờ món ăn đầy bổ dưỡng ấy, mà kim thân của Đức Thế Tôn chịu đựng được nổi căn bệnh kiết lỵ rất trầm trọng, Đức Thế Tôn mới có thể ngự đến khu rừng Sālà xứ Kusīnārà để tịch diệt Niết Bàn như đã dự định trước. Do đó, hai lần dâng cúng dường hai món vật thực này trong thời gian cách xa nhau 45 năm, nhưng quả báu lớn có tính chất bằng nhau, như Đức Thế Tôn đã dạy. Sau khi nằm nghỉ ngơi một lát, Đức Thế Tôn truyền bảo Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, chúng ta nên đi sang bên kia bờ sông Hirañvatī. Đức Thế Tôn cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng sang bên kia bờ sông ấy, rồi tiếp tục đến xứ Kusīnārā. Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn tại Kusinārā Vào buổi chiều ngày rằm tháng tư, Đức Thế Tôn ngự đến khu rừng Sālā xứ Kusinārā, nơi nghỉ ngơi của hoàng tộc Malla, Ngài truyền bảo Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, con nên đặt chiếc giường quay đầu về hướng Bắc, giữa hai cây Sālā (song long thọ). Khi ấy Đức Thế Tôn nằm nghiêng bên phải, đầu quay về hướng Bắc, hai chân duỗi thẳng so le, chân phải duỗi thẳng, chân trái đầu gối hơi co, hai chân không bằng nhau, có chánh niệm trí tuệ tỉnh giác, không định trước giờ xả. Cúng dường Đức Thế Tôn Hai cây Sālā trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim thân của Đức Thế Tôn để cúng dường Ngài. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, hương trời... từ cõi trời rơi xuống như mưa để cúng dường Đức Thế Tôn. Những tiếng nhạc trời trổi lên để cúng dường Đức Thế Tôn. Khi ấy, Đức Thế Tôn truyền dạy Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, hai cây Sālā trổ hoa trái mùa, những đóa hoa rơi xuống kim thân của Như Lai để cúng dường Như Lai. Các cây hoa trong rừng đều nở rộ, những đóa hoa trời, hương trời, từ các cõi trời, rơi xuống, những tiếng nhạc trời từ các cõi trời cũng trổi lên để cúng dường Như Lai. Này Ānanda, sự cúng dường đến Như Lai bằng phẩm vật như vậy không gọi là cách cúng dường cao thượng. Người nào là Tỳ khưu hoặc Tỳ khưu ni, hoặc cận sự nam, hoặc cận sự nữ, là người thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, thực hành đúng theo pháp hành bát chánh đạo, hành theo chánh pháp, người ấy gọi là người có lòng tôn kính, lễ bái, cúng dường Như Lai bằng cách cúng dường cao thượng. Này Ānanda, vì vậy, các con luôn luôn tâm niệm rằng: “Chúng ta là hành giả tiến hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, thực hành đúng theo pháp hành Bát Chánh Đạo, hành theo chánh pháp”. Sở dĩ, Đức Thế Tôn đề cao sự cúng dường bằng cách thực hành chánh pháp là cao thượng hơn sự cúng dường bằng phẩm vật, là vì, chỉ có sự cúng dường bằng thực hành chánh pháp mới có thể giữ gìn, duy trì giáo pháp của Đức Thế Tôn trường tồn trên thế gian. Ngài Đại đức Ānanda khóc Vào lúc canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn sắp tịch diệt Niết Bàn, Ngài Ānanda đang còn là bậc Thánh Nhập Lưu, nên Ngài tủi thân, lánh ra một nơi vắng vẻ đứng khóc, than vãn rằng: “Ta còn là bậc Thánh Nhập Lưu, cần phải tiến hành thiền tuệ, để dẫn đến chứng đắc Thánh bậc cao, nhưng Đức Thế Tôn là bậc Thầy tế độ của ta sắp tịch diệt Niết Bàn”. Khi ấy, Đức Thế Tôn không thấy Đại đức Ānanda, nên hỏi chư Tỳ khưu rằng: - Này chư Tỳ khưu, Ānanda, đang ở đâu? Chư Tỳ khưu bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, Đại đức Ānanda lánh xa một nơi vắng vẻ, đứng khóc, than vãn rằng: “Ta đang còn là bậc Thánh Nhập Lưu, cần phải tiến hành thiền tuệ để dẫn đến chứng đắc Thánh bậc cao, nhưng Đức Thế Tôn là bậc Thầy tế độ của ta sắp tịch diệt Niết Bàn”. Đức Thế Tôn truyền bảo một vị Tỳ khưu gọi Đại đức Ānanda đến hầu Ngài. Vị Tỳ khưu vâng lời, đi mời Đại đức Ānanda đến hầu Đức Thế Tôn. Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi một nơi hợp lẽ. Đức Thế Tôn dạy Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, Như Lai đã từng dạy rằng: “Sống xa lìa nhau, chết biệt ly với những người thân yêu, các bậc kính mến ấy, đó là điều hiển nhiên. Do đó, làm sao lại có thể, có những người thân yêu, các bậc kính mến ấy theo ý muốn của mình được!”. Những pháp nào đã sinh rồi, hiện hữu rồi, do nhân duyên cấu tạo rồi, chắc chắn có sự hủy hoại là thường, dù có mong muốn rằng: “xin pháp ấy đừng hủy hoại”, đó là điều không thể nào có được. Này Ānanda, con là một thị giả tận tụy chăm sóc Như Lai với tâm từ được biểu hiện bằng thân, khẩu, ý. Đó là sự lợi ích, sự tiến hóa trong mọi thiện pháp, bồi bổ đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật rồi. Này Ānanda, con nên cố gắng tinh tấn, chắc chắn con sẽ đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, trở thành bậc Thánh Arahán một cách mau chóng. Đức Thế Tôn khen ngợi Đại đức Ānanda đã tận tụy chăm sóc Ngài một cách rất chu đáo; Đại đức Ānanda là bậc thiện trí biết cách cư xử đối với mọi người, biết cách sắp xếp thời gian hợp lý, hướng dẫn mọi người đến hầu Đức Thế Tôn: Ngài hướng dẫn cho Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, Đức vua, các quan, nhóm ngoại đạo v.v... vào hầu Đức Thế Tôn. Lý do Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn tại xứ Kusinārā Tuy có nhiều xứ lớn, kinh thành lớn, nhưng Đức Thế Tôn không chọn làm nơi tịch diệt Niết Bàn của Ngài, mà chọn xứ Kusinārā bởi có 3 lý do: 1- Trong quá khứ, xứ Kusinārā là một kinh thành rộng lớn có tên là kinh thành Kusavatī, có Đức Chuyển Luân Thánh Vương Mahādassana trị vì tứ châu thiên hạ. Nếu Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn nơi khác, thì không có lý do thuyết bài kinh Mahādassanasutta. Do đó, Ngài chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết Bàn, để Ngài có cơ hội thuyết bài kinh Mahādassanasutta, chúng sinh lắng nghe bài kinh này sẽ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện pháp. 2- Đạo sĩ Subhadda là người đệ tử cuối cùng của Đức Thế Tôn, hiện đang ở tại xứ Kusinārā. Ngoài Đức Thế Tôn ra, không có vị Thánh Thanh Văn nào có khả năng tế độ Đạo sĩ Subhadda được. Do đó, Đức Thế Tôn phải đến xứ Kusināra để tế độ cho Đạo sĩ Subhadda người đệ tử cuối cùng của Ngài, Tỳ khưuSubhadda sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trước khi Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn. 3- Đức Thế Tôn biết rõ rằng, sau khi Ngài tịch diệt Niết Bàn, làm lễ hỏa táng xong, các nước lớn sẽ kéo đến tranh giành Xá lợi của Ngài, do đó có thể gây ra chiến tranh giữa các xứ với nhau. Đức Thế Tôn thấy rõ, biết rõ chỉ có Bàlamôn Doṇa là người có khả năng đứng ra làm trung gian hòa giải các Đức vua từ các nước lớn và biết cách phân chia các Xá lợi cho mỗi xứ thỉnh đem về xây Bảo tháp thờ Xá lợi. Vị Bàlamôn Doṇahiện đang ở tại xứ Kusinārā, nên Đức Thế Tôn quyết định chọn xứ Kusinārā làm nơi tịch diệt Niết Bàn của Ngài. Đó là 3 lý do chính mà Đức Thế Tôn chọn xứ Kusi- nārā làm nơi tịch diệt Niết Bàn của Ngài. Đêm cuối cùng của Đức Thế Tôn Đêm cuối cùng của Đức Thế Tôn là đêm rằm tháng tư (âm lịch). - Canh đầu: Nghe tin canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn sẽ tịch diệt Niết Bàn tại khu rừng Sālā. Đức vua, Hoàng hậu, Hoàng tử, Công chúa cùng các bậc bô lão trong hoàng tộc Malla, cùng hoàng thân quốc thích tuần tự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, tiếp theo các quan trong triều, toàn thể dân chúng xứKusinārā tuần tự đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối cùng, kéo dài trọn canh đầu. - Canh giữa: Đạo sĩ Subhadda nghe tin Đức Thế Tôn sắp tịch diệt Niết Bàn vào canh chót đêm âý, nên nghĩ rằng: “Ta có nhiều điều thắc mắc, đã từ lâu chưa có một vị Samôn nào có thể giải đáp, giúp làm cho ta đoạn tuyệt được thắc mắc ấy. Nay nghe tin Samôn Gotama, Đức Phật Chánh Đẳng Giác ngự đến xứ này, Ngài đang ở tại khu rừng Sālā sắp tịch diệt Niết Bàn vào canh chót đêm nay. Ta nên đến hầu Ngài, để hỏi những điều thắc mắc của ta, kính nhờ Ngài giải đáp.” Đạo sĩ Subhadda đến khu rừng Sālā tìm gặp Đại đức Ānanda xin phép vào hầu Đức Thế Tôn. Đại đức Ānanda bảo rằng: - Này Đạo sĩ Subhadda, xin ông không nên quấy rầy, làm phiền Đức Thế Tôn trong lúc này, Đức Thế Tôn mệt quá rồi. Đạo sĩ Subhadda tha thiết khẩn khoản xin Đại đức Ānanda cho phép vào hầu Đức Thế Tôn. Nghe Đại đức Ānanda và Đạo sĩ Subhadda đang nói chuyện qua lại với nhau, Đức Thế Tôn truyền dạy Đại đức Ānanda rằng: - Này Ānanda, con không nên ngăn Subhadda, để cho Subhadda đến gặp Như Lai. Đạo sĩ Subhadda có cơ hội đến hầu vấn an Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, Đạo sĩ Subhadda bạch rằng: - Kính bạch Samôn Gotama, các Samôn, Bàlamôn là Đạo sư, trưởng phái có tiếng tăm có oai lực đứng đầu một môn phái, mà phần đông dân chúng tán dương ca tụng, tôn sùng là bậc Thánh Thiện. Như các vị Đạo sư Puraṇa kassapa, Makkhali gosāla, Ajita Kesakambalạ, Pakudha kaccayana, Sañjaya Belaṭṭhaputta, Nigaṇṭhanāṭaputta tất cả Samôn, Bàlamôn ấy đã chứng đắc như họ đã tuyên bố, hoặc tất cả không chứng đắc, hoặc có một số chứng đắc, một số không chứng đắc. Bạch Ngài. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Subhadda, con không nên đề cập đến vấn đề ấy, con nên lắng nghe Như Lai thuyết pháp. Này Subhadda, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh không có trong pháp luật nào, thì chắc chắn không có theo tuần tự Samôn thứ nhất bậc Thánh Nhập Lưu, Samôn thứ nhì bậc Thánh Nhất Lai, Samôn thứ ba bậc Thánh Bất Lai, Samôn thứ tư bậc Thánh Arahán trong pháp luật ấy. Này Subhadda, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh có trong pháp luật nào, thì chắc chắn có tuần tự Samôn thứ nhất bậc Thánh Nhập Lưu, Samôn thứ nhì bậc Thánh Nhất Lai, Samôn thứ ba bậc Thánh Bất Lai, Samôn thứ tư bậc Thánh Arahán trong pháp luật ấy. Này Subhadda, Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh chỉ có trong pháp luật của Như Lai mà thôi, cho nên, chắc chắn có tuần tự Samôn thứ nhất bậc Thánh Nhập Lưu, Samôn thứ nhì bậc Thánh Nhất Lai, Samôn thứ ba bậc Thánh Bất Lai, Samôn thứ tư bậc Thánh Arahán trong pháp luật của Như Lai. Ngoài pháp luật này của Như Lai ra, những tà giáo khác không có Samôn nào cả. Này Subhadda, chư Tỳ khưu trong pháp luật này sống thực hành đúng theo pháp hành bát chánh đạo, và truyền dạy chỉ dẫn người khác cũng thực hành đúng theo pháp hành bát chánh đạo, thì trong đời này không vắng chư bậc Thánh Arahán. Sau khi lắng nghe lời giáo huấn của Đức Thế Tôn, Đạo sĩ Subhadda vô cùng hoan hỷ, tán dương ca tụng Đức Thế Tôn. Xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật, nơi Đức Pháp, nơi Đức Tăng, xin xuất gia trở thành Sadi, Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài. Đức Thế Tôn cho phép Đạo sĩ Subhadda xuất gia trở thành Tỳ khưu. Sau khi trở thành Tỳ khưu, Đại đức Subhadda ở một mình nơi thanh vắng, không dể duôi, tiến hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Đại đức Subhadda là người đệ tử cuối cùng của Đức Thế Tôn. - Canh chót: Đức Thế Tôn gọi Đại đức Ānanda khuyên dạy rằng: - Này Ānanda, trong số các con, nếu có người nào nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn rồi, chúng ta không còn Đức Tôn sư (natthi no satthā)”, thì các con chớ có nên nghĩ như vậy. Pháp và Luật là vị Tôn sư Đức Phật dạy rằng: “Yo vo Ānanda, mayā dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā...” [7] . “Này Ānanda, chánh pháp nào mà Như Lai đã thuyết, luật nào mà Như Lai đã chế định; khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, chánh pháp ấy, luật ấy là vị Tôn sư của các con.” Trong Chú giải bài kinh Mahāparinibhānasutta giải thích rằng: Dhammo: Chánh pháp gồm có toàn bộ Tạng Kinh và toàn bộ Tạng Vi Diệu Pháp. Vinayo: Luật đó là toàn bộ Tạng Luật. Giáo pháp của Đức Phật đã thuyết giảng suốt 45 năm, kể từ khi chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Tam Tạng gồm có 84.000 pháp môn phân chia như sau: Tạng Luật gồm có 21.000 pháp môn. Đức Phật giải thích rằng: “Iti imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbayāmi. Ahañca kho dāni ekakova ovadāmi anusāsāmi; mayi parinibbute imāni caturāsitidhammakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti...” “Như vậy, 84.000 pháp môn này tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con; khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, thì có 84.000 pháp môn ấy là “Tôn sư” sẽ giáo huấn các con, sẽ theo dạy dỗ các con”. Qua đoạn Chú giải, chính Đức Phật giải thích cho các hàng Phật tử hiểu rằng: Đức Phật tịch diệt Niết Bàn rồi, không phải chúng ta không còn có vị Tôn sư, mà thật ra, chúng ta còn có 84.000 pháp môn là có 84.000 vị Tôn sư. Mỗi pháp môn là một vị Tôn sư có khả năng dẫn dắt, dạy bảo chúng ta đạt đến sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Lời giáo huấn cuối cùng của Đức Phật Cuối cùng canh chót, Đức Thế Tôn một lần nữa nhắc nhở khuyên bảo chư Tỳ khưu lần cuối cùng rằng: “Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo, “Này chư Tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nư, bây giờ Như Lai nhắc nhở, khuyên bảo các con lần cuối cùng rằng: - Các pháp hữu vi (ngũ uẩn) có sự diệt là thường, các con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ”. Đức Thế Tôn vừa chấm dứt câu: “Appamādena sampādetha” từ đó không còn dạy thêm một câu nào khác nữa. Do đó, câu “Handa dāni bhikkhave... appamādena sampādetha”, gọi là Pacchimabuddhavacana: Câu Phật ngôn cuối cùng. Đức Phật tịch diệt Niết Bàn Sau khi chấm dứt lời dạy cuối cùng bằng câu: “Appamādena sampādetha”. Đức Phật nhập đệ nhất thiền, rồi xả đệ nhất thiền. Khi ấy, Đại đức Ānanda hỏi Đại đức Anuruddha rằng: - Thưa pháp huynh Anuruddha, Đức Thế Tôn tịch diệt Niết Bàn rồi có phải không? - Này pháp đệ Ānanda, Đức Thế Tôn chưa tịch diệt Niết Bàn, Ngài đang nhập diệt thọ tưởng. Đức Thế Tôn xả diệt thọ tưởng. Đó là một trong tám hiện tượng thường xảy ra đối với Chư Phật. Đức Phật có danh hiệu Đức Phật Gotama là Bậc Cao Cả nhất, Bậc Vĩ Đại nhất, Bậc Tối Thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh, đã tịch diệt Niết Bàn. Trước khi tịch diệt Niết Bàn, Đức Phật đã khuyên bảo, nhắc nhở các hàng Thanh Văn đệ tử lần cuối cùng rằng: “Handa dāni bhikkhave āmantayāmi vo, - Này chư Tỳ khưu, bây giờ Như Lai khuyên bảo, nhắc nhở các con lần cuối cùng rằng: “Các pháp hữu vi, ngũ uẩn có sự diệt là thường, các con nên cố gắng tinh tấn hoàn thành mọi phận sự Tứ Thánh Đế, bằng pháp không dể duôi, tiến hành Tứ Niệm Xứ”. Tất cả chúng sinh hễ có sinh, thì ắt phải có tử; không ngoại trừ một ai cả. Đức Phật và chư Thánh Arahán không gọi là tử (chết) mà gọi là tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài; bởi vì, Đức Phật và chư Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt mọi tham ái không còn dư sót, cho nên, không có tham áidẫn dắt nghiệp cho quả tái sanh kiếp sau nữa. Còn các chúng sinh khác, dù là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai, vẫn còn tham ái là nhân sinh khổ dẫn dắt tái sinh kiếp sau, tiếp tục tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn rồi, song giáo pháp của Ngài vẫn còn tồn tại trên thế gian. Như Đức Phật đã giảng giải trước khi Ngài tịch diệt Niết Bàn rằng: “Iti imāni caturāsitidhamakkhandhasahassāni tiṭṭhanti, ahaṃ ekova parinibbayāmi. Ahañca kho dāni ekakova ovadāni, anusāsāmi; mayi parinibbute imāni caturāsitidhamakkhandhasahassāni tumhe ovadissanti anusāsissanti...”. “Như vậy, 84.000 pháp môn này vẫn tồn tại, chỉ có một mình Như Lai tịch diệt Niết Bàn. Thật ra, bây giờ chỉ có một mình Như Lai giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con; khi Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, thì có 84.000 pháp môn ấy sẽ là “Tôn sư” giáo huấn các con, theo dạy dỗ các con...”. Tuy Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn cách đây 2.548 năm rồi, song giáo pháp của Ngài vẫn còn được giữ gìn duy trì đầy đủ trọn vẹn 84.000 pháp môn cho đến ngày nay. Muốn được gần gũi thân cận với Đức Phật, mỗi người chúng ta cố gắng tinh tấn học pháp học Phật giáo và hành pháp hành Phật giáo; tùy theo khả năng của mỗi người, để cho Phật giáo được duy trì ở trong tâm. Những người nào có Phật giáo ở trong tâm, thì những người ấy có được nương nhờ nơi Đức Phật, nương nhờ nơi Đức Pháp, nương nhờ nơi Đức Tăng, được nương nhờ nơi Tam Bảo cao thượng, để cho họ có thể trở nên con người cao thượng và để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho chính họ trong kiếp hiện tại lẫn những kiếp vị lai; đặc biệt còn làm duyên lành trên con đường dẫn đến sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài; đồng thời giữ gìn duy trì Phật giáo được trường tồn trên thế gian, đến hết tuổi thọ Phật giáo 5.000 năm, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh nhất là chư thiên và nhân loại. -ooOoo-
NGHIỆP TIỀN KIẾP CỦA ĐỨC PHẬT GOTAMA Đức Phật Gotama là kết quả của sự tích lũy đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, trải qua vô số tiền kiếp trong quá khứ, kể từ kiếp đầu tiên có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cho đến kiếp chót Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Gotama. Đức Bồ Tát kiếp đầu tiên của Đức Phật Gotama Đức Thế Tôn ngự trên tảng đá quý cùng với số đông chư Tỳ khưu, ở ven rừng có nhiều cây hoa thơm gần hồ Anotatta. Khi ấy Đức Thế Tôn truyền dạy thiện nghiệp của Ngài đã tạo trong tiền kiếp đầu tiên rằng: “Này chư Tỳ khưu, các con nên lắng nghe thiện nghiệp mà Như Lai đã tạo trong tiền kiếp. Như Lai thấy một vị Tỳ khưu hành pháp hạnh đầu đà sống trong rừng, nên phát sinh đức tin trong sạch, bèn dâng cúng dường “một tấm vải cũ” đến vị Tỳ khưu ấy. Ngay khi ấy, Như Lai phát sinh đại bi tâm có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác để tế độ, cứu vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Đó là tiền kiếp Đức Bồ Tát đầu tiên của Như Lai có ý nguyện trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Chính nhờ thiện nghiệp bố thí cúng dường “tấm vải cũ” trong tiền kiếp đầu tiên ấy, dẫn đến kiếp hiện tại đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Gotama này” [8] . Đức Bồ Tát kiếp chót của Đức Phật Gotama Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama trải qua vô số kiếp tạo các pháp hạnh ba-la-mật trong ba thời kỳ: - Thời kỳ Đức Bồ Tát có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, suốt 7 a-tăng-kỳ. - Thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng sinh biết ý nguyện của Đức Bồ Tát, suốt 9 a-tăng-kỳ. - Thời kỳ Đức Bồ Tát được 24 Đức Phật thọ ký xác định thời gian còn lại, Đức Bồ Tát chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama. Bắt đầu từ Đức Phật Dīpaṅkara đầu tiên cho đến Đức Phật Kassapa thứ 24 cuối cùng, trải qua suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất. Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, cho đến Đức Bồ Tát kiếp chót của Ngài đó là kiếp Thái tử Siddhattha của Đức vua Suddhodana và chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī. Năm 16 tuổi, Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha lên ngôi Vua và thành hôn với Công chúa Yasodhara; năm 29 tuổi xuất gia; năm 35 tuổi, Đức Bồ Tát chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama; năm 80 tuổi, Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Quả nghiệp thiện và bất thiện của Đức Phật Gotama Đức Bồ Tát, tiền thân của Đức Phật Gotama, đã tạo đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật thuộc nghiệp thiện cho quả chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Song trải qua nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, có khi Đức Bồ Tát cũng tạo những nghiệp bất thiện (nghiệp ác); những nghiệp ác ấy có cơ hội cho quả trong kiếp chót, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn. Nghiệp ác cũ mà Ngài đã tạo trong tiền kiếp quá khứ cho quả khổ trong kiếp chót hiện tại như sau: Nghiệp cũ của Đức Phật Gotama Gọi là nghiệp cũ là để phân biệt với nghiệp mới. Đối với Đức Phật và chư Thánh Arahán, chỉ còn có nghiệp cũ mà thôi, không còn tạo thêm nghiệp mới nữa. Ngoài Đức Phật và chư Thánh Arahán ra, còn lại tất cả chúng sinh kể cả ba bậc Thánh Nhân là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai đều có nghiệp cũ, và vẫn còn tạo nghiệp mới. Mỗi nghiệp thiện, mỗi nghiệp bất thiện, nếu có cơ hội, thì có thể cho quả ngay trong kiếp hiện tại, kiếp thứ hai và kiếp thứ ba cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn. Kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama. Khi còn là Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, trải qua nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, đôi khi Ngài cũng có tạo những nghiệp bất thiện, hay gọi là nghiệp ác cũ của Ngài; những nghiệp ác cũ này cũng đã cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp. Nay kiếp hiện tại, tuy Ngài đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, những ác nghiệp cũ ấy vẫn còn có năng lực chút đỉnh; nếu có cơ hội, thì vẫn cho quả của chúng, không ngoại trừ Đức Phật. Đức Phật đã thuyết giảng trong bộ Apadāna phần Buddhāpadāna [9] về những nghiệp ác cũ cho quả được tóm lược như sau: Đức Bồ Tát hành khổ hạnh suốt sáu năm trường (dukkarakiriyā) Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp Đức Phật Gotama, sinh trong dòng họ Bàlamôn cao quý, tên là Jotipāla, nhằm vào thời kỳ Đức Phật Kassapa đang xuất hiện trên thế gian. Đức Bồ Tát Jotipāla có tính ngã mạn về dòng dõi, nên không có đức tin nơi Tam Bảo; (còn một nguyên nhân khác liên quan đến quả nghiệp bất thiện của Đức Phật Kassapa). Cho nên, khi nghe đến danh hiệu Đức Phật Kassapa, Đức Bồ Tát Jotipāla nói rằng: “Samôn đầu trọc ấy, đâu có dễ dàng chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác! Chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác là điều khó khăn lắm!”. Đức Bồ Tát Jotipāla có một người bạn tốt tên là Ghaṭikāra, Ghaṭikāra vốn là một cận sự nam có đức tin trong sạch nơi Đức Phật Kassapa, thường động viên khuyến khích Đức Bồ Tát Jotipāla đến hầu Đức Phật Kassapa, nhưng lần nào Đức Bồ Tát Jotipāla cũng không chịu đi. Một hôm, Ghaṭikāra bày kế mời Đức Bồ Tát Jotipāla đi đến tắm tại một bến nước gần chỗ ở của Đức Phật Kassapa và chư Tỳ khưu Tăng. Khi tắm xong, Ghaṭikāra liền mời Đức Bồ Tát Jotipāla đi đến hầu Đức Phật Kassapa, Đức Bồ Tát Jotipāla không chịu đi; Ghaṭikāra nghĩ rằng không đi không được, Ghaṭikāra liền nắm lấy đầu tóc của Đức Bồ Tát Jotipāla dắt lôi đi. Đức Bồ Tát Jotipāla không còn cách nào khác, đành phải đi theo đến hầu Đức Phật Kassapa. Khi ngồi lắng nghe chánh pháp, Đức Bồ Tát Jotipāla phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật Kassapa, kính xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài. Về sau, Tỳ khưu Jotipāla được Đức Phật Kassapa thọ ký xác định thời gian còn lại cùng trong kiếp trái đất Bhaddakappanày, sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama. Đức Phật Kassapa là Đức Phật thứ 24 cuối cùng thọ ký Đức Bồ Tát Jotipāla tiền kiếp của Đức Phật Gotama. Đức Bồ Tát tiếp tục tạo cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật cho đến kiếp chót là kiếp Đức Bồ Tát Siddhattha đi xuất gia năm 29 tuổi. Do nghiệp ác khẩu xúc phạm đến Đức Phật Kassapa ấy, cho nên, Đức Bồ Tát phải chịu hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm trường ròng rã, tại núi rừng gần làng Uruvela, bởi vì nghiệp ác khẩu ấy cho quả khổ hạnh suốt 6 năm. Về sau, từ bỏ pháp khổ hạnh, Đức Bồ Tát hành theo pháp hành Trung Đạo dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi tham ái, mọi phiền não, mọi ác pháp, đặc biệt diệt được mọi tiền khiên tật, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama. Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài: Trong thời quá khứ ấy, Như Lai là Bàlamôn Jotipāla đã xúc phạm đến Đức Phật Kassapa rằng: “Samôn trọc đầu ấy, đâu có dễ dàng chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác là điều khó lắm”. Vì quả của nghiệp ác khẩu ấy, nên Như Lai phải hành pháp khổ hạnh tại núi rừng gần làng Uruvela suốt 6 năm trường ròng rã. Do bởi nghiệp ác cũ, nên đã hành pháp khổ hạnh sai lầm. Như Lai không thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác bằng pháp hành khổ hạnh ấy. Sau khi từ bỏ pháp hành khổ hạnh, Như Lai hành theo pháp hành Trung Đạo dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Nay, Như Lai không còn tạo nghiệp ác và nghiệp thiện nữa, đã diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp; không còn nóng nảy khổ tâm, không còn sầu não, thống khổ. Như Lai sẽ tịch diệt Niết Bàn. Đức Phật bị nàng Ciñcamāṇavikā vu khống giữa tứ chúng (abbhakkhāna) Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người đã vu khống Ngài Đại đức Nanda, bậc Thánh Thanh Văn của Đức Phật. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới thoát khỏi cõi địa ngục. Mỗi khi được tái sinh làm người, Đức Bồ Tát thường bị vu khống những điều xấu, bởi do năng lực của nghiệp ác khẩu đã tạo trong tiền kiếp quá khứ ấy. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian. Danh thơm tiếng tốt của Ngài lan truyền khắp mọi nơi, các hàng đệ tử mỗi ngày thêm một đông, gồm các Đức vua, các quan, các phú hộ, dân chúng, chư thiên, phạm thiên... lắng nghe chánh pháp, rồi thực hành theo chánh pháp chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhân từ bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai cho đến bậc Thánh Arahán. Những người nào chưa chứng đắc thành bậc Thánh Nhân, những người ấy có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin quy y nương nhờ nơi Tam Bảo, trở thành người cận sự nam hoặc cận sự nữ trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Thực ra, đại đa số những người ấy, trước kia có truyền thống theo các giáo phái ngoại đạo, Bàlamôn v.v... Nay, khi Đức Phật xuất hiện trên thế gian, họ trở thành đệ tử của Đức Phật. Đó là điều mà làm cho các nhóm tu sĩ ngoại đạo cảm thấy tổn thương rất nhiều, những tín đồ cũ không giữ lại được, tín đồ mới không thêm; cho nên, sự cúng dường, lợi lộc càng ngày càng giảm dần, đời sống của các tu sĩ ngoại đạo càng ngày càng thiếu thốn, khổ cực hơn xưa. Các nhóm tu sĩ ngoại đạo họp bàn với nhau, bày mưu tính kế thâm độc để làm hạ uy tín của Đức Phật. Thời ấy, trong thành Sāvatthi có người kỹ nữ duyên dáng xinh đẹp như thiên nữ, tên là Ciñcāmāṇavikā, nàng vốn là đệ tử ngoan đạo của các tu sĩ ngoại đạo. Các tu sĩ ngoại đạo nghĩ ra diệu kế: “Chúng ta dùng nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai với Samôn Gotama, để gây ra sự hiểu lầm, làm mất uy tín của y”. Một hôm, như lệ thường nàng Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, làm lễ các tu sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao hôm âý các tu sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một câu nào. Nàng thoáng nghĩ: “Mình có lỗi gì đây!”. Nàng bạch với vị Trưởng Lão rằng: - Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào? Vị Trưởng Lão tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng: - Không! Này con, con là một đệ tử ngoan đạo, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý Thầy khổ cực, thiếu thốn lắm con à! Vì vậy, quý Thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì. Nàng Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên nóng lòng hỏi: - Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ, sung túc lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy? - Này Ciñcāmāṇavikā, con không biết gì hay sao? Chính Samôn Gotama đã làm khổ quý Thầy, chính Samôn Gotama đã chiếm đoạt những người đệ tử giàu có, nên quý thầy mất những lợi lộc cúng dường... Do đó, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy. Nàng Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa: - Vậy mà con có hay biết gì đâu. Không biết con có thể làm gì, để giúp đỡ cho quý Ngài? Các tu sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói: - Chỉ sợ con ngại khó, mà không giúp quý Thầy đó thôi. Nàng Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp: - Không, khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi. Vị tu sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói: - Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý Thầy, thì chỉ có một phương kế duy nhất, con hãy dùng sắc đẹp duyên dáng đầy quyến rũ của con, giả làm người mang thai với Samôn Gotama. Nếu con làm được như vậy, thì sẽ làm giảm uy tín của Samôn Gotama. Như vậy, phần đông tín đồ của Samôn Gotama sẽ trở về lại với chúng ta. Nàng Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói: - Đúng vậy, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận, để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con. Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi, sau khi đến nghe Đức Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức Phật trở về nhà, họ thường gặp nàng Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay, đang đi trên đường hướng đến chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi: - Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy? Nàng Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý gây ra cho mọi người sự nghi ngờ: - Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì! Nói xong, nàng liền bước đi theo hướng đến chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó. Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận sự nam, cận sự nữ đem những phẩm vật đến chùa Jetavana để cúng dường Đức Phật và Tăng chúng, thì họ thấy nàng Ciñcāmāṇa-vikā từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi, Người ta lại hỏi nàng: - Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy? Nàng Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp: - Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì! Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận sự nam, cận sự nữ khác hỏi rằng: - Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu, mà sáng nay lại vào thành sớm vậy? Nàng Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực. - Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi mà! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật rằng: “Đêm qua tôi nghỉ ở Gandhakuti chung với Samôn Gotama, để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi”. Nói xong, nàng tỏ vẻ đắc ý bỏ vào thành. Khi nghe nàng Ciñcāmāṇavikā nói vậy, có số cận sự nam, cận sự nữ còn phàm nhân thiểu trí nên sanh tâm bán tín bán nghi, cho đến khi trải qua 3 - 4 tháng, thì nàng Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài, làm như người đang mang thai. Có một số người phàm không có trí tuệ, không hiểu biết về giáo pháp của Đức Phật, ngờ vực rằng nàng Ciñcāmāṇavikā có phải mang thai hay không! Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức Thế Tôn đến hồi chung cuộc. Nhóm tu sĩ ngoại đạo gọi nàng Ciñcāmāṇavikā đến, họ dùng một miếng gỗ đẽo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có bốn đầu dây ràng, bảo nàng Ciñcāmāṇavikā mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người mang thai thật, xong nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng cây đánh ở sống bàn tay, bàn chân cho sưng lên, nhìn thấy như người đàn bà sắp đến thời kỳ sinh nở. Đức Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā Vào một buổi chiều, khi Đức Phật đang ngự trên pháp toà, tại giảng đường chùa Jetavana, tứ chúng đệ tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, rồi đến trước Đức Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc: - Này ông Đại Samôn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ? Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ.... Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được, thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức vua Pasenadi, ông phú hộ Anāthapindika, bà Visākhā... lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thoả mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi, phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây! Nghe nàng Cincāmānavikā mắng nhiếc, Đức Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp toà rồi từ tốn nói: “Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvam vā vitathabhāvam vā ahameva ca tvanca jānāma” [10] . - Này cô em! Cô nói lời chân thật hay giả dối, chỉ có Như Lai và cô biết rõ mà thôi? Nàng Cincāmānavikā liền đáp: - Đúng vậy, này ông Đại Samôn! Chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi! Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam Thập Tam Thiên, bảo toà của vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên nhãn quan sát nguyên nhân, vua trời thấy rõ ràng nàng Cincāmānavikā đang mắng nhiếc Đức Phật giữa tứ chúng đệ tử, bởi những chuyện không có thật. Đây là âm mưu thâm độc của nhóm tu sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ nữ Cincāmānavikā vô liêm sĩ, cố ý làm hạ uy tín của Đức Phật giữa tứ chúng đệ tử. Vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Vua trời cùng bốn thiên nam xuất hiện xuống giảng đường chùa Jetavanangay tức khắc. Bốn vị thiên nam, theo lệnh của vua trời hoá thành bốn con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt bốn sợi dây cột tấm gỗ, hình dạng giống bào thai buộc chặt sau lưng nàng Cincāmānavikā, đồng thời vua trời hoá một luồng gió thổi cho tấm gỗ kia rơi xuống đất đụng nhằm hai bàn chân của nàng Cincāmānavikā, làm cho đôi chân của nàng bầm máu. Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên được phơi bày trước mắt tứ chúng đệ tử. Nàng Cincāmānavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người đánh đập, nhổ nước bọt, rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa. Nàng Cincāmānavikā thất vọng, thất tha thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi rút xác nàng xuống sâu dưới lòng đất. Sau khi nàng Cincāmānavikā chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh vào đại địa ngục Avīci,chịu quả khổ do nghiệp ác đã tạo. Chuyện nàng Cincāmānavikā vu khống Đức Phật đã lan truyền khắp mọi nơi, từ xứ này sang xứ khác. Và ai ai cũng đều biết đó là âm mưu thâm độc đê tiện của nhóm tu sĩ ngoại đạo. Một số người trước kia còn hộ độ nhóm tu sĩ ngoại đạo, nay họ nghe thấy như vậy, mất hết đức tin, nên không còn phát sinh tâm cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm tu sĩ ngoại đạo nữa, đời sống của nhóm tu sĩ ngoại đạo thiếu thốn khổ cực, nay lại càng tệ hại hơn nữa. Trái lại, dân chúng khắp mọi nơi phát sanh thiện tâm trong sạch cúng dường Đức Phật và chư Tăng các thứ vật dụng sung túc; số người nào chưa có đức tin thì nay lại có đức tin nơi Tam Bảo; số người nào đã có đức tin nơi Tam Bảo rồi, đức tin lại càng thêm tăng trưởng. Đức Phật đã thắng lời vu khống của nàng Cincāmānavikā nhờ pháp an định [11] . Như Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài: Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai đã từng vu khống Đại đức Nanda; bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Mỗi khi được tái sinh làm người, Như Lai thường bị vu khống những điều xấu không có thật, bởi do năng lực của nghiệp ác khẩu mà Như Lai đã tạo trong thời quá khứ ấy. Do năng lực của nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, kiếp chót này bị nàng Cincāmānavikā vu khống Như Lai những điều không có thật, giữa tứ chúng đệ tử. Đức Phật bị vu khống do bởi cô tu nữ ngoại đạo Sundarī Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thuộc giai cấp thấp, tên là Munāḷi, Đức Bồ Tát thường thân cận gần gũi với kẻ ác, nên sinh thói hư tật xấu. Một hôm, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác Surabhi, Đức Bồ Tát Munāḷi liền buông lời vu khống rằng: “Samôn trọc đầu này phá giới! Hành pháp thấp hèn!” Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy, cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi địa ngục. Mỗi khi được tái sinh làm người, thường bị vu khống những điều xấu, không có thật. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, danh thơm tiếng tốt của Ngài lan truyền khắp mọi nơi. Các hàng đệ tử mỗi ngày một thêm đông; ngược lại đệ tử của các nhóm ngoại đạo mỗi ngày một giảm dần, cho nên đời sống của tu sĩ ngoại đạo lâm vào cảnh thiếu thốn khổ cực hơn xưa. Do đó, họ bày mưu tính kế làm mất uy tín của Đức Phật. Thời ấy, nữ tu sĩ ngoại đạo tên Sundarī rất xinh đẹp, đến viếng thăm các tu sĩ ngoại đạo, đảnh lễ xong rồi, thấy nhóm tu sĩ ngoại đạo ngồi im lặng không nói với cô một lời nào. Cô bèn bạch hỏi: - Kính thưa quý Ngài, con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con lời nào? Một tu sĩ ngoại đạo than vãn rằng: - Tất cả chúng tôi bị Samôn Gotama làm khổ, mà con không quan tâm hay biết gì, đó là lỗi cuả con đó! - Con có thể vu khống Samôn Gotama được hay không? - Kính thưa quý Ngài, con có thể làm được. Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi, sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp tại ngôi chùa Jetavana xong, họ đảnh lễ Đức Phật rồi xin phép trở về nhà, họ thường gặp cô tu sĩ Sundarī cầm một bó hoa trong tay, đang đi trên đường hướng đến ngôi chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi: - Chiều tối rồi, cô đi đâu vậy? Cô tu nữ Sundarī trả lời để gây ra một sự nghi ngờ: - Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì! Nói xong, cô liền bước đi theo hướng đến ngôi chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó. Rồi sáng hôm sau, khi có số cận sự nam, cận sự nữ đem phẩm vật đến chùa Jetavana, để cúng dường Đức Phật và chư Tỳ khưu Tăng, họ lại thấy cô tu nữ Sundarī từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi. Người ta hỏi cô: - Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu, mà sáng nay lại vào thành sớm vậy? Cô tu nữ Sundarī muốn gây ra sự ngờ vực bèn đáp rằng: - Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Nếu quý vị muốn biết, thì tôi sẽ nói thật: “Đời tôi rất vinh hạnh, đêm đêm được đến phục vụ Samôn Gotama tại cốc Gandhakuṭi của Ngài”. Nhóm tu sĩ ngoại đạo chờ tin này, nay có cơ hội, họ liền truyền tin vu khống rằng: - Thưa tất cả mọi người, quý vị đã nghe rõ hành vi xấu xa của Samôn Gotama như vậy! Chính cô tu nữ Sundarī cũng rêu rao vu khống hành vi xấu của Đức Phật đối với cô nữa, gieo rắc hoang mang, gây ra sự ngờ vực đến mọi người. Đối với các hàng Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật thì chắc chắn không bao giờ tin lời vu khống của các tu sĩ nhóm ngoại đạo và của cô tu nữ ngoại đạo Sundarī; còn đối với một số phàm nhân thiểu trí phát sinh tâm ngờ vực. Đó là âm mưu của các tu sĩ ngoại đạo làm giảm uy tín của Đức Phật, để mong phục hồi uy tín của mình. Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài: Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là người si mê tên Munāḷi đã xúc phạm đến Đức Phật Độc Giác Surabhi, sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục phải chịu khổ suốt thời gian lâu dài nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy. Do năng lực nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, trong kiếp hiện tại này Như Lai bị vu khống do bởi cô tu nữ ngoại đạo Sundarī. Đức Phật và chư Tỳ khưu Tăng bị vu khống giết tu nữ Sundarī để giấu tội lỗi (abbhakkhāna) Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh ra trong gia đình thuộc dòng dõi Bàlamôn, Đức Bồ Tát là bậc đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng, tinh thông các bộ sách Bàlamôn. Ngài làm thầy dạy nhóm đệ tử 500 vị Bàlamôn tại khu rừng dưới chân núi Himavantu. Một hôm, vị Đạo sĩ chứng đắc bát thiền [12] , ngũ thông [13] có nhiều oai lực, đến tu viện của Đức Bồ Tát. Đức Bồ Tát gặp vị Đạo sĩ này, liền phát sinh tâm ganh tỵ, nên vu khống vị Đạo sĩ này rằng: “Vị Đạo sĩ này lừa dối! Vị Đạo sĩ này thích hưởng dục lạc ngũ trần...” Đức Bồ Tát còn nói với nhóm đệ tử của mình về vị Đạo sĩ ấy là người lừa dối, thích hưởng dục lạc ngũ trần... Nhóm đệ tử tin theo lời của Thầy, đi vào xóm làng khất thực, cũng nói xấu vị Đạo sĩ ấy như vậy. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh làm chúng sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi địa ngục. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian, danh thơm tiếng tốt của Ngài lan truyền khắp mọi nơi, từ Vua chúa, các nhà phú hộ, dân chúng có đức tin nơi Đức Phật, Đức Pháp, chư Tỳ khưu Tăng, họ cúng dường bốn thứ vật dụng đầy đủ sung túc. Ngược lại, các nhóm ngoại đạo; phần đông tín đồ ngoại đạo từ bỏ các tu sĩ ngoại đạo, đến kính xin quy y nương nhờ nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Họ không còn hộ độ cúng dường đến các tu sĩ ngoại đạo; cho nên, đời sống các tu sĩ ngoại đạo càng ngày càng thiếu thốn khổ cực hơn trước. Dù các tu sĩ ngoại đạo và cô Sundarī vu khống Đức Phật những điều xấu không có thật, vẫn không làm giảm uy tín Đức Phật được, nên nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng đến thủ đoạn thâm độc là thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết cô tu nữ ngoại đạo Sundarī, rồi giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana. Nhóm côn đồ nghiện rượu đã hành động y theo kế của họ. Sau đó, nhóm tu sĩ ngoại đạo xin vào trình Đức vua Pasenadi Kosala. - Tâu Đức vua, cô tu nữ Sundarī, đệ tử của chúng tôi đã mất tích. Đức vua truyền lệnh cho phép đi tìm kiếm cô tu nữ Sundarī. Nhóm tu sĩ ngoại đạo kéo nhau giả bộ đi tìm, đến gặp xác chết cô tu nữ Sundarī trong đống rác trước cổng ra vào ngôi chùa Jetavana, họ đặt xác chết cô tu nữ Sundarī trên cáng đem vào trình Đức vua, rồi khiêng đi quanh thành Sāvatthi rêu rao vu khống rằng: “Thưa tất cả mọi người, xin quý vị hãy xem hành vi xấu xa của Samôn Gotama và nhóm đệ tử của y, đã giết chết cô tu nữ Sundarī, đệ tử ngoan đạo của chúng tôi, để che giấu tội lỗi của Samôn Gotama”. Đức vua Pasenadi Kosala anh minh và sáng suốt, truyền lệnh quân lính đi điều tra tìm rõ kẻ đã giết cô tu nữ Sundarī. Khi ấy, nhóm côn đồ nghiện rượu đang uống rượu say sưa rồi cãi cọ với nhau và đổ lỗi cho nhau rằng: - Mày giết cô tu nữ Sundarī! - Không phải tao, mà chính mày! Lính trong triều đình nghe được câu chuyện, liền bắt nhóm côn đồ nghiện rượu đem trình lên Đức vua xét hỏi. Đức vua truyền hỏi: - Các ngươi đã giết chết cô tu nữ Sundarī có phải không? - Muôn tâu Đức vua! Dạ, phải, chính bọn con giết cô tu nữ Sundarī. Đức vua truyền hỏi tiếp: - Ai thuê mướn các người giết chết cô tu nữ Sundarī. Nhóm côn đồ nghiện rượu liền khai: - Muôn tâu Đức vua! Chính nhóm tu sĩ ngoại đạo thuê mướn chúng con giết chết cô tu nữ Sundarī, rồi bảo chúng con đem giấu xác chết của cô trong đống rác trước cổng ra vào của ngôi chùa Jetavana. Đức vua liền truyền lệnh cho bắt nhóm tu sĩ ngoại đạo, bắt chúng phải nhận tội; rồi phải đi quanh thành Sāvatthi cải chính lại lời vu khống Đức Phật Gotama và chư Tỳ khưu Tăng trước kia rằng: “Kính thưa tất cả mọi người, chính chúng tôi là người đã thuê mướn nhóm côn đồ nghiện rượu giết chết cô tu nữ Sundarī, để đổ tội cho Samôn Gotama và chư Tỳ khưu Tăng Thanh Văn đệ tử của Ngài. Sự thật, Đức Phật Gotama và nhóm Thanh Văn đệ tử hoàn toàn vô tội”. Khi nhóm tu sĩ ngoại đạo làm như vậy, dân chúng trong thành Sāvatthi không còn ngờ vực gì nữa. Đức vua bắt nhóm côn đồ nghiện rượu và nhóm tu sĩ ngoại đạo chủ mưu giết hại cô tu nữ Sundarī hành hình. Sau đó, Đức Phật và chư Tỳ khưu Tăng được phần đông dân chúng gần xa phát sinh đức tin nơi Tam Bảo. Sở dĩ Đức Phật và nhóm Tỳ khưu Tăng bị vu khống điều xấu, không có thật, là vì nghiệp ác cũ của Đức Bồ Tát, Ngài đã vu khống vị Đạo sĩ trong thời quá khứ, còn năng lực chút đỉnh, nên kiếp chót này có cơ hội cho quả của nghiệp ác cũ ấy. Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài: Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Như Lai, là Bàlamôn học xong các bộ sách Bàlamôn, làm Thầy dạy nhóm 500 đệ tử trong khu rừng lớn gần núi Himavanta. Một vị Đạo sĩ chứng đắc bát thiền và ngũ thông có nhiều oai lực đến tu viện, Như Lai nhìn thấy vị Đạo sĩ ấy phát sinh tâm ganh tỵ đã nói xấu vị Đạo sĩ ấy; Như Lai còn nói với nhóm đệ tử rằng: “Đạo sĩ này lừa dối, Đạo sĩ này thích hưởng dục lạc ngũ trần”. Khi Như Lai nói như vậy, nhóm đệ tử tin theo lời của Như Lai, chúng đi khất thực đến mọi gia đình nói với mọi người rằng: “Đạo sĩ ấy lừa dối, vị Đạo sĩ ấy là người thích hưởng dục lạc ngũ trần”, sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy. Do năng lực nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên kiếp hiện tại Như Lai và nhóm 500 Tỳ khưu đều bị vu khống, về cái chết của cô tu nữ Sundarī. Đức Phật bị lửa phỏng da bàn chân Trong quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là đứa trẻ nghịch ngợm đang chơi ở ngoài đường, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, Đức Bồ Tát đốt lửa vây quanh Ngài. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát khỏi cõi địa ngục. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, do năng lực của nghiệp ác ấy còn dư sót chút đỉnh, nên Đức Phật bị lửa phỏng da bàn chân. Tuyển chọn nhóm xạ thủ bắn Đức Phật Trong quá khư, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là một tướng lĩnh giết hại nhiều kẻ thù. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, do năng lực của nghiệp ác cũ ấy còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ khưu Devadatta tuyển chọn nhóm xạ thủ cung nỏ bắn tên, để giết hại Đức Phật. Nhóm xạ thủ không thể bắn mũi tên ra được, đến đảnh lễ sám hối; Đức Phật thuyết pháp tế độ, họ đều trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. Đức Phật bị đụng mảnh đá nơi ngón chân cái (Silāvedho) Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, có một người em trai cùng cha khác mẹ. Khi cha mẹ qua đời, để lại một gia tài lớn. Hai anh em mỗi người có một đám gia nhân tùy tùng riêng; vì nghe lời xúi giục của đám gia nhân ấy, nên hai anh em gây gỗ, sát hại lẫn nhau, để chiếm đoạt toàn bộ tài sản của cải về mình. Đức Bồ Tát là anh có sức mạnh hơn người em, xô đẩy người em té xuống hốc đá, rồi dùng đá lăn đè chết người em trai. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài nhiều ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, còn Tỳ khưu Devadatta cùng trong dòng dõi là con trai bà cô và ông cậu, cũng là hoàng huynh của Công chúa Yasodharā. Tiền kiếp của Tỳ khưu Devadatta và tiền kiếp của Đức Bồ Tát Siddhattha là hai người buôn bán nữ trang[14] được tóm lược như sau: Thuở quá khứ, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật, là người buôn bán nữ trang lương thiện, và tiền kiếp của Tỳ khưu Devadatta cũng là người buôn bán nữ trang, nhưng có tánh tham lam và gian ác. Một gia đình trước kia là phú hộ, nhưng bây giờ tất cả tài sản đều bị khánh kiệt, chỉ còn cái mâm bằng vàng ròng bị bụi bám đầy. Thừa kế gia đình ấy chỉ còn một bà ngoại già và đứa cháu gái, họ không hề biết gì về giá trị của chiếc mâm vàng ấy. Một hôm, có người buôn bán nữ trang (tiền kiếp của Tỳ khưu Devadatta) từ xa đến, đi ngang nhà, cô cháu gái thấy, liền năn nỉ xin bà ngoại mua cho mình một món nữ trang. Bà ngoại già âu yếm bảo với cháu gái rằng: “Này cháu yêu quý! Ngoại không tiếc gì cho cháu cưng đâu. Hiềm một nỗi gia đình mình hiện nay nghèo quá, cơm áo không đủ dùng, thì lấy đâu có tiền bạc mà mua nữ trang cho cháu. Chỉ còn cái mâm cũ kỹ kia, để ngoại hỏi người lái buôn xem thử có đổi được món nữ trang nhỏ nào cho cháu không”. Bà liền gọi người lái buôn vào, đưa cái mâm cũ kỹ cho y xem. Sau khi săm soi kỹ, với con mắt nhà nghề, người lái buôn biết rõ là cái mâm bằng vàng ròng quý giá, mà hai bà cháu không hề biết được giá trị của nó. Tánh vốn tham lam và gian ác, y tự nghĩ: “Ta phải chiếm đoạt cái mâm vàng này, mà chỉ cần đổi một món nữ trang nho nhỏ không đáng giá”. Nghĩ xong, y giả vờ bực dọc ném cái mâm xuống đất rồi nói: - Cái mâm cũ kỹ này chẳng có giá trị gì cả, nó không đáng giá 12 xu rưỡi! Lấy đâu để đổi lấy một món nữ trang? Nói xong, người lái buôn tham lam và gian ác kia liền bỏ đi nơi khác. Ngày hôm sau, người lái buôn lương thiện (Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật) đi ngang nhà, cô cháu gái khóc lóc năn nỉ đòi nữ trang cho bằng được. Vì rất thương yêu và muốn vừa lòng cháu, bà gọi người lái buôn vào nhà, lại đem cái mâm cũ kỹ kia đưa cho người lái buôn này xem. Lần này, thì bà kể lể về hoàn cảnh khốn khổ của mình cho người lái buôn nghe, với hy vọng đổi được món nữ trang nhỏ nào đó cho cháu. Nhà lái buôn lương thiện cầm cái mâm, lau chùi lớp bụi, phát hiện ra cái mâm này không chỉ là một cái mâm bằng vàng ròng tinh chất quý giá, mà còn chạm trổ những phù điêu, hoa văn tinh tế, công phu, thật là một nghệ thuật tuyệt vời. Đức Bồ Tát hai tay nâng niu cái mâm và từ tốn thưa rằng: - Thưa mẹ, cái mâm này không những bằng vàng ròng tinh chất, mà còn là một cổ vật quý giá, ít nhất khoảng trên 100 ngàn Kahāpana (đồng tiền vàng Ấn Độ thời xưa). Tất cả giá trị nữ trang và tiền bạc của con mang theo bên người chưa bằng được một phần trăm, thì con đâu dám đụng đến cổ vật vô giá ấy. Bà ngoại già vô cùng cảm kích trước tấm lòng chân thật của người lái buôn lương thiện, chân thành nói: - Này con, chính tấm lòng chân thật của con quý hơn cả cổ vật này. Hôm trước có người lái buôn nữ trang như con đã chê cái mâm này. Y nói cái mâm này chưa đáng giá 12 xu rưỡi. Khi đi, y còn ném cái mâm xuống đất và thốt lên những lời hằn học nữa. Nếu quả thật, nó bằng vàng quý giá như con nói, thì đó chính là quả phước của con. Vậy, con hãy lấy đi rồi cho cháu ta một món nữ trang nào cũng được, con đừng ái ngại. Sau nhiều lần từ chối không được, Đức Bồ Tát đành trao lại tất cả số nữ trang và trọn số tiền của mình, tổng cộng giá trị khoảng một ngàn (1.000) đồng tiền vàng cho hai bà cháu, chỉ xin lại tám đồng để chi phí dọc đường. Đức Bồ Tát đã đem cái mâm vàng ra đi. Sau đó, thì người lái buôn tham lam gian ác trở lại tìm bà cụ, y bảo: - Này bà già, hãy đem cái mâm cũ kỹ kia ra đây, tôi sẽ bố thí cho cháu bà một món nữ trang nho nhỏ! Bà cụ nhìn thấy y, con người gian giảo đáng khinh bỉ, bà bảo: - Này ông kia, cái mâm vàng của tôi đáng giá 100 ngàn đồng, sao trước đây ông chê, cho rằng nó chưa đáng giá 12 xu rưỡi? Tôi đã bán cho một người lái buôn nữ trang lương thiện, ông ấy đã trao cho tôi trọn số tiền 500 đồng của mình và tất cả số nữ trang còn lại. Tôi đã trao cái mâm vàng cho người ấy mang đi xa rồi. Nghe nói vậy, người lái buôn tham lam và gian ác cảm thấy vô cùng tiếc rẻ gào lên: - Ôi! Ta đã bị thiệt hại quá lớn rồi! Tên lái buôn kia đã cướp cái mâm bằng vàng đáng giá 100 ngàn đồng của ta rồi! Gào thét đến khô hơi tắt tiếng, tâm uất hận đến cực độ, tên lái buôn nằm lăn xuống đất ngất xỉu. Khi tỉnh dậy, như người điên, y xả bỏ quần áo, đồ nữ trang vung vãi, với đầu bù tóc rối, y chạy đuổi theo Đức Bồ Tát. Lúc ấy, Ngài đã qua quá nửa dòng sông, vẫn nghe văng vẳng tiếng gào thét của y: “Hãy trở lại! Hãy trở lại!”. Ngài bảo người lái đò chèo thẳng qua bên kia sông. Bên bờ sông này, quá thất vọng và tiếc của, quá uất hận, cơn nóng giận cực độ làm cho người lái buôn máu trào ra miệng, lăn ra chết ngay tại chỗ. Trước khi tắt thở, với tâm sân hận y thốt ra lời nguyền độc địa kết oan trái với Đức Bồ Tát: “Ta sẽ kết oan trái với ngươi dù bất cứ ở địa vị nào”. Đó là lần kết oan trái đầu tiên giữa tiền kiếp của Tỳ khưu Devadatta với tiền kiếp của Đức Phật. Bởi vậy, trong suốt khoảng thời gian tử sinh luân hồi, hễ mỗi khi hai người gặp lại nhau, ở hoàn cảnh nào, địa vị nào, hậu kiếp của người lái buôn tham lam gian ác kia cũng tìm cách giết hại hoặc làm khổ Đức Bồ Tát; dù ở địa vị làm cha, Đức Bồ Tát làm con, thì người cha ấy cũng tìm đủ lý do để giết hại Đức Bồ Tát. Thậm chí cho đến kiếp cuối cùng; hậu kiếp của người lái buôn nữ trang lương thiện trước kia, nay là Thái tử Siddhattha, đã chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác, và hậu kiếp của người lái buôn tánh tham lam gianác trước kia, nay là Hoàng tử Devadatta dòng Sakya (thân quyến của Thái tử Siddhattha) xuất gia trở thành Tỳ khưu Devadatta, đệ tử của Đức Phật; Tỳ khưu Devadatta tìm đủ mọi mưu mô thâm độc để giết hại Đức Phật. Nhưng do oai lực của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cho nên không một ai trên thế gian có khả năng giết hại được Ngài. Do năng lực nghiệp ác cũ sát sanh của Đức Phật ấy còn dư sót chút đỉnh, nên khiến Tỳ khưu Devadatta leo lên núi Gijjhakūṭa xô tảng đá lăn xuống, trên đường Đức Phật đi kinh hành, tảng đá bị ngăn lại, chỉ vỡ một mảnh đá nhỏ rơi xuống đụng phải đầu ngón chân cái của Đức Phật, làm bầm máu mà thôi. Như vậy, Tỳ khưu Devadatta phạm phải một trong năm trọng nghiệp vô gián. Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài: Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai đã giết người em trai cùng cha khác mẹ, vì nguyên nhân tranh đoạt gia tài của cha mẹ để lại, Như Lai đã xô em trai xuống hốc đá, rồi lăn đá đè chết. Do quả của nghiệp ác cũ ấy, kiếp chót này, Như Lai bị Tỳ khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, nhưng tảng đá bị ngăn lại, chỉ vỡ một mảnh đá nhỏ văng ra đụng vào ngón chân cái của Như Lai. Đức Phật bị mảnh đá đụng ngón chân cái làm bầm máu (Sakalikāvedha) Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong một gia đình bình thường; khi còn nhỏ rất tinh nghịch, cậu bé đang chơi giữa đường lớn, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, cậu bé nghĩ: “Samôn trọc đầu đi đâu?”, rồi cầm một mảnh đá ném vào sau lưng Đức Phật Độc Giác, đụng phải gót chân của Ngài làm trầy da, chảy máu. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài hằng ngàn năm, cho đến khi mãn nghiệp ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi Đức Phật đang đi kinh hành tại núi Gijjhakūṭa, do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, tuy tảng đá bị cản lại, nhưng một mảnh đá nhỏ vỡ văng ra đụng vào ngón chân cái của Đức Phật, làm cho bầm máu. Đó là do quả của nghiệp ác cũ quá khứ của Ngài. Đức Phật bị mổ vết thương bằng dao (Satthaccheda) Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là Đức vua một nước nhỏ ngoài trung xứ, Đức vua Bồ Tát gần gũi thân cận với các vị quan cận thần ác, nên trở thành Đức vua ác. Một ngày nọ, Đức vua nổi khùng cầm gươm, đi chân trần (không mang dày dép) ra khỏi cung điện chạy vào thành giết chết nhiều người vô tội. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác sát sanh ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, ngạ quỷ, atula, súc sinh, chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi 4 cõi ác giới. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ khưu Devadatta xô tảng đá lăn xuống, một mảnh đá nhỏ văng đụng, làm ngón chân cái của Ngài bị bầm máu. Về sau, thái y Jīvaka dùng con dao bén mổ vết thương lấy máu bầm ra với tâm từ; đó là nghiệp thiện, để chữa trị vết thương ở đầu ngón chân cái của Đức Phật. Tỳ khưu Devadatta làm bầm ngón chân Đức Phật, bằng mảnh đá với tâm sân, nên phạm phải trọng ác nghiệp gọi là nghiệp vô gián (anantariyakamma) chắc chắn sẽ cho quả tái sinh trong cõi địa ngục Avecī. Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài: Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là Đức vua đi chân trần cầm gươm vào thành giết người vô tội. Sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ bị hành hạ thiêu đốt trong địa ngục suốt thời gian lâu dài, cho đến mãn nghiệp ác ấy, mới thoát ra khỏi cõi địa ngục. Do quả của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh, kiếp hiện tại, kiếp chót này, Như lai bị mổ lấy máu bầm ở vết thương đầu ngón chân cái của Như Lai; bởi vì nghiệp cũ còn năng lực cho quả. Đức Phật bị voi Nāḷāgiri rượt đuổi Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người nài voi, đang cỡi voi đi, nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang đi trên đường, Đức Bồ Tát nài voi liền nghĩ rằng: “Samôn đầu trọc này từ đâu đến đây?”. Y phát sinh tâm sân làm cho con voi nổi giận rượt theo Đức Phật Độc Giác. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do năng lực của nghiệp ác cũ trong quá khứ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ khưu Devadatta đến gặp Vua Ajātasattu trình tâu âm mưu dùng voi Nāḷāgiri hung dữ để sát hại Đức Phật; Đức vua chấp thuận. Tỳ khưu Devadatta ra lệnh người quản tượng: - Ngày mai, ngươi phải cho hung tượng Nāḷāgiri uống 16 hũ rượu, say điên cuồng rồi thả ra theo con đường mà Samôn Gotama thường hay đi vào thành khất thực, để nó chạy thẳng đến chà chết Samôn Gotama. Sáng hôm ấy, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng đang ngự vào thành Rājagaha, voi Nāḷāgiri nhìn thấy Đức Phật từ xa ngự đến, liền cuộn vòi, quạt hai lỗ tai, cong đuôi chạy thẳng đến nơi Đức Phật, ví như một quả núi đang bổ nhào về phía Ngài. Đức Phật liền niệm rải tâm từ đến voi Nāḷāgiri, rồi gọi bằng một giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến: - Này Nāḷāgiri con yêu quý! Người ta cho con uống 16 hũ rượu mạnh, làm cho con say điên cuồng, để con giết hại Như Lai. Con hãy đến đây với Như Lai, này Nāḷāgiri yêu quý! Voi Nāḷāgiri hung ác nghe giọng phạm âm ngọt ngào trìu mến của Đức Phật, liền mở mắt, ngẩng đầu nhìn thẳng thấy kim thân Đức Phật tỏa ra ánh từ bi, thì lập tức cơn say điên cuồng tan biến mất, tâm thức tỉnh. Do nhờ oai lực tâm từ của Đức Phật, voi Nāḷāgiri hạ vòi xuống, ngoan ngoãn đi lần đến, quỳ một cách cung kính dưới đôi bàn chân của Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp tế độ voi Nāḷāgiri, toàn thân tâm của voi Nāḷāgiri phát sinh hỷ lạc chưa từng có. Nếu không phải là loài súc sanh, thì sau khi nghe pháp xong chắc chắn voi Nāḷāgiri đã chứng đắc một trong những Thánh Đạo - Thánh Quả nào đó của các bậc Thánh; nhưng vì voi Nāḷāgiri là loài súc sanh, nên không thể chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả được. Từ đó về sau, voi Nāḷāgiri [15] trở thành voi hiền lành dễ mến cho đến trọn đời của nó. Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài: Trong tiền kiếp quá khứ, Như Lai là người quản tượng, đang cỡi voi đi trên đường, Đức Bồ Tát quản tượng làm cho con voi nổi giận rượt đuổi Đức Phật Độc Giác đang đi khất thực, sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới chịu quả khổ cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới thoát ra khỏi 4 đường ác đạo. Do năng lực của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh, khiến Tỳ khưu Devadatta sai người quản tượng thả voi Nāḷāgiri chạy nhào đến trước mặt Như Lai đang đi vào kinh thành Rājagaha để khất thực. Đức Phật bị bệnh đau đầu (sīsadukkha) Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình ngư dân, Đức Bồ Tát cùng đám ngư dân đến chỗ bắt cá, nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều gom thành đống lớn, Đức Bồ Tát cùng tất cả đám ngư dân liền phát sinh tâm hoan hỷ về sự sát sanh ấy. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới: địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sanh cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi cõi ác giới. Kiếp hiện tại, kiếp chót Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do quả của nghiệp ác cũ hoan hỷ sự sát sanh, trong quá khứ ấy còn dư sót chút đỉnh, nên đôi khi Đức Phật bị bệnh đau đầu; còn tiền kiếp của đám ngư dân trong quá khứ, nay kiếp hiện tại sinh trong hoàng tộc dòng Sakya đều bị tiêu diệt bởi Đức vua Viḍaḍūbha [16] . Đức Phật dạy về nghiệp cũ của Ngài: Tiền kiếp của Như Lai sinh trong xóm ngư dân. Nhìn thấy đám ngư dân bắt được cá rất nhiều, Như Lai phát sinh tâm hoan hỷ. Do năng lực của nghiệp ác cũ còn dư sót chút đỉnh đôi khi cho quả bệnh đau đầu phát sinh trong kiếp chót của Như Lai, còn đám ngư dân trong quá khứ, nay là dòng họ Sakya bị Đức vua Viḍaḍūbha tàn sát tất cả. Đức Phật độ cơm gạo đỏ (yavakhādana) Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thuộc giai cấp thấp, kém học thức, là kẻ si mê (andhabāla). Đức Bồ Tát nhìn thấy chư Tỳ khưu Thanh Văn đệ tử của Đức Phật độ vật thực ngon lành, cơm gạo sāli, nên Đức Bồ Tát đã xúc phạm rằng: “Các Samôn đầu trọc này hãy dùng cơm gạo đỏ, đừng dùng cơm gạo sāli...”. Đức Bồ Tát sau khi chết, do nghiệp ác khẩu ấy cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài, cho đến khi mãn nghiệp ác ấy, mới được thoát ra khỏi 4 cõi ác giới. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Ngài cùng chư Tỳ khưu Tăng du hành khắp mọi nơi, thuyết pháp tế độ cho chúng sinh có duyên lành nên tế độ. Một thuở nọ, Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ khưu Tăng ngự đến xứ Verañjā. Hay tin Đức Phật đã ngự đến, ông Bàlamôn Verañja đến hầu Đức Phật, để đấu khẩu tranh tài với Đức Phật, nhưng ông Bàlamôn không thể thắng được Đức Phật, liền hồi tâm tỉnh trí phát sinh đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng, lắng nghe chánh pháp liền chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu. Ông thành kính đảnh lễ Đức Phật, thỉnh cầu Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ 3 tháng mùa mưa tại xứ Verañjā này. Đức Phật im lặng nhận lời thỉnh cầu của ông Bàlamôn. Từ ngày ấy, Ma vương tâm ác làm cho tâm của dân chúng xứ Verañjā mê muội, và đồng thời khi ấy tại xứ Verañjā đang gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông; bởi do thiếu thốn vật thực, cho nên Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ khưu Tăng đi khất thực, không có một ai cúng dường để bát. Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư Tỳ khưu đi khất thực nhưng không được gì, họ phát sinh thiện tâm làm phước thiện bố thí cúng dường phần lúa đem theo làm vật thực cho ngựa, giã ra thành gạo đỏ, nấu cơm, chư thiên bỏ thêm vào hương vị trời, rồi cúng dường để bát đến Đức Phật cùng nhóm 500 chư Tỳ khưu Tăng đệ tử của Ngài. Như vậy, Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ khưu Tăng độ cơm gạo đỏ suốt 3 tháng trong mùa an cư nhập hạ năm ấy, cho đến ngày làm đại lễ Pavāraṇā (lễ yêu cầu thỉnh mời chỉ lỗi của mình) trước ngày mãn hạ, Ma vương tâm ác không còn làm cho dân chúng xứ Verañjā mê muội nữa. Thật vậy, ông Bàlamôn Verañja nhớ lại trước đây 3 tháng, có thỉnh mời Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ khưu Tăng đê tử của Ngài an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại xứ Verañjā này, mà ông đã quên hẳn, nên suốt thời gian nhập hạ ông không cúng dường bốn thứ vật dụng đến Đức Phật cùng nhóm 500 Tỳ khưu Tăng. Ông Bàlamôn Verañja đến hầu Đức Phật, kính thỉnh Ngài cùng nhóm 500 Tỳ khưu Tăng ngày hôm sau, ông xin làm phước đại thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì, đồng thời ông kính xin Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng tha thứ tội lỗi mê muội quên hẳn bổn phận của ông. Thật ra, đó là nghiệp ác cũ mà Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama. Nghiệp ác cũ ấy cho quả không những một mình Đức Phật phải chịu quả khổ, mà nhóm 500 Tỳ khưu Tăng đệ tử của Ngài cũng bị ảnh hưởng quả của nghiệp ác ấy. Đức Phật bị bệnh đau lưng (piṭṭhidukkha) Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình giàu sang, Đức Bồ Tát có dáng vóc lùn, nhưng có sức mạnh phi thường. Thời ấy, có một võ sĩ đô vật thân hình vạm vỡ, qua những trận đọ sức với các đối thủ từ khắp tỉnh thành cho đến thủ đô, y đều toàn thắng, y tự cho mình là người vô địch. Một hôm, võ sĩ này đến quê hương của Đức Bồ Tát, cũng như các nơi khác, không có một đối thủ nào có thể đọ sức nổi với y; cho nên, y huyênh hoang tự đắc cho mình là người vô địch, rồi hãnh diện lên đường đi đến nơi khác. Khi ấy, Đức Bồ Tát nghĩ rằng: “Người võ sĩ này đã thắng tất cả các võ sĩ đô vật trên quê hương của ta, rồi ra đi với vẻ tự cao ngã mạn như vậy”. Đức Bồ Tát liền đến gặp y vỗ tay bảo rằng: - Ngươi hãy đến đây, đọ sức với ta rồi đi! Võ sĩ đô vật cười khanh khách và nghĩ rằng: - Các địch thủ to lớn, ta còn thắng một cách dễ dàng, huống gì dáng người thấp lùn này, ta chỉ cần dùng một tay là đủ. Y vỗ tay đi đến gặp Đức Bồ Tát. Hai người bắt tay lẫn nhau trước khi đọ sức. Đức Bồ Tát vồ đến ôm gọn thân hình vạm vỡ của y, nhấc hỏng chân lên, đưa lên hư không, quay vòng tròn, rồi dộng vai mạnh xuống mặt đất làm y sụn cột xương sống, rồi để y nằm dài trên mặt đất, không còn cựa quậy được nữa. Dân chúng trong xứ thấy vậy vỗ tay tán dương khen thưởng Đức Bồ Tát đã thắng được một võ sĩ đô vật lừng danh, rồi họ tặng cho Đức Bồ Tát những phần thưởng vô cùng quý giá. Đức Bồ Tát chữa trị lại phần xương vai, xương cột sống cho võ sĩ, rồi đỡ y đứng dậy và dạy bảo y, từ nay về sau không nên đọ sức so tài với ai nữa. Mỗi khi Đức Bồ Tát được tái sinh làm người, nghiệp ác làm khổ võ sĩ đô vật ấy, nếu có cơ hội cho quả, thì Đức Bồ Tát thường bị đau lưng, đau mình nhức mỏi. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoàn toàn không còn khổ tâm do phiền não nữa; nhưng Đức Phật vẫn còn khổ thân tứ đại, thường mắc bệnh đau lưng... Cho nên, đôi khi Đức Phật đang thuyết pháp, bệnh đau lưng phát sinh, Ngài truyền dạy Đại đức Sāriputta hoặc Đại đức Mahāmoggallāna thay thế Ngài tiếp tục thuyết pháp; còn Ngài cho đệ tử trải y nằm nghỉ, để giảm bớt cơn đau lưng. Đó là quả của nghiệp cũ. Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài: Trận đô vật, Như Lai đã làm khổ võ sĩ đô vật trong thời quá khứ; nay kiếp hiện tại, do quả của nghiệp cũ ấy, nên bệnh đau lưng phát sinh đến cho Như Lai. Đức Phật bị bệnh đại tiện ra máu (atisāra: bệnh kiết lỵ) Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình thầy thuốc. Đức Bồ Tát trưởng thành sinh sống bằng nghề làm thầy hốt thuốc chữa bệnh cho mọi người. Khi Đức Bồ Tát chữa bệnh cho con trai một phú hộ; người con trai phú hộ trả tiền công hốt thuốc không xứng đáng. Vì không hài lòng nên Đức Bồ Tát đã hốt thuốc xổ cho con trai phú hộ uống. Khi Đức Bồ Tát được tái sinh làm người, do nghiệp ác cho uống thuốc xổ ấy, nếu có cơ hội cho quả, thì Đức Bồ Tát bị bệnh kiết lỵ, đi đại tiện ra máu. Kiếp hiện tại là kiếp chót, Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào năm 35 tuổi. Từ đó về sau, suốt 45 năm thuyết pháp tế độ cho chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Lúc Đức Phật tròn 80 tuổi, đúng vào ngày rằm tháng tư âm lịch, ngày cuối cùng Ngài tịch diệt Niết Bàn. Sau khi Đức Phật độ món ăn đặc biệt bổ dưỡng sūkuramaddava của ông Cunda kammāraputta, và có thêm phần hương vị của chư thiên ở các cõi trời bỏ vào món ăn ấy, để bồi bổ tăng thêm sức mạnh trong cơ thể của Ngài. Trên đường đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng trên đường ngự đến khu rừng Kusinārā, Ngài bị lâm bệnh kiết lỵ đi đại tiện ra máu, làm cho cơ thể mệt nhoài, lại thêm khát nước, Ngài phải ngừng lại nằm nghỉ ngơi một lúc, rồi mới tiếp tục ngự đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật tịch diệt Niết Bàn vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch). Đức Phật là bậc cao thượng nhất trong tam giới, thế mà vẫn không sao tránh khỏi nghiệp ác cũ. Đức Phật dạy về nghiệp ác cũ của Ngài: Tiền kiếp Như Lai làm nghề thầy thuốc, làm vị thầy chữa bệnh cho con phú hộ; do không hài lòng, vị thầy đã hốt thuốc xổ cho con trai phú hộ uống. Do quả của nghiệp ác ấy cho quả, nên bệnh đại tiện ra máu phát sinh đến Như Lai. Đức Phật khát nước Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, là người chăn bò, dẫn đàn bò ra đồng ăn cỏ, Đức Bồ Tát nhìn thấy con bò mẹ đang uống nước đục, nên ngăn cấm không cho nó uống theo ý muốn. Do quả của nghiệp ác ấy, Đức Bồ Tát Siddhattha kiếp chót trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trước khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, trên đường từ thành phố Pāvā đến khu rừng Kusinārā, Đức Phật bị lâm bệnh kiết lỵ đi đại tiện ra máu, mệt nhoài và khát nước. Ngài truyền dạy Đại đức Ānanda đi lấy nước. Ngài Đại đức Ānanda đi đến con sông còn ít nước, vả lại vừa có 500 chiếc xe bò băng qua sông làm nước sông đục ngầu, nên Ngài Đại đức Ānanda không muốn lấy nước ấy. Về phần Đức Phật vì khát nước quá không chịu đựng nổi, nên Ngài truyền dạy Đại đức Ānanda phải lấy nước đem về độ cho qua cơn khát. Ngài Đại đức Ānanda bước xuống sông, thật phi thường thay!, dòng nước sông đang đục ngầu liền trở nên trong xanh sạch sẽ. Ngài lấy nước ấy đem về dâng cho Đức Phật độ. Đó là do quả của nghiệp ác cũ ngăn cấm con bò mẹ đang uống nước, trong tiền kiếp của Ngài. Đức Phật đã thuyết những nghiệp ác cũ đã tạo trong những tiền kiếp quá khứ của Ngài đến chư Tỳ khưu Tăng tại ven rừng gần hồ Anotatta. Tất cả mọi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng đều tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của chính mình. Trong hiện tại, con người có quyền chọn lựa nghiệp nào, rồi có quyền tạo nên nghiệp thiện hoặc nghiệp ác ấy; song quả của nghiệp thiện hoặc quả của nghiệp ác phát sinh do hội đủ nhân duyên, hoàn toàn không do mình chọn lựa. Hễ nghiệp thiện là cho quả tốt, quả an lạc...; ngược lại, hễ nghiệp ác là cho quả khổ... Như vậy, muốn quả tốt, quả an lạc, thì nên tạo mọi nghiệp thiện; và không muốn quả xấu, quả khổ não, thì không nên tạo mọi nghiệp ác. Nếu chúng sinh nào đã tạo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác nào rồi, đến khi nghiệp nào có cơ hội cho quả của nó, thì chúng sinh ấy thọ nhận quả của nghiệp ấy, như là người thừa kế quả của nghiệp mà chính mình đã tạo. Đức Phật dạy về nghiệp rằng: “Kammassako mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammapaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇam vā pāpakaṃ vā, tassa dāyado bhavissāmi” [17] “Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ta ra, nghiệp là bà con thân quyến, nghiệp là nơi nương nhờ của ta. Ta tạo nghiệp nào: là thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp, ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện nghiệp, hoặc ác nghiệp ấy”. Mỗi nghiệp thiện, mỗi nghiệp ác, nếu có đầy đủ nhân duyên và cơ hội, thì nó có thể cho quả ngay trong kiếp hiện tại, cho quả tái sinh trong kiếp sau, và những kiếp kế tiếp cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn, đối với bậc Thánh Arahán. Vậy chúng ta nên có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của mình; còn muốn biết rõ nghiệp quá khứ nào, cho quả như thế nào, trong kiếp hiện tại, không phải là điều dễ biết, đối với tất cả mọi chúng sinh. Duy nhất chỉ có Đức Sabbaññū (Đức Phật Toàn Giác) mới thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp trải qua vô số tiền kiếp quá khứ, kiếp hiện tại, kiếp vị lai của Ngài và của tất cả mọi chúng sinh. Và một số chư Thánh Arahán cũng có khả năng biết được nghiệp thiện, nghiệp ác của mình trong những tiền kiếp có giới hạn. Quý Ngài thuật lại được ghi vào trong bộ Apādāna. Ngoài Đức Phật và một số chư bậc Thánh Arahán ra, còn lại tất cả chúng sinh khác, không một ai có khả năng biết rõ nghiệp của mình đã tạo trong những tiền kiếp quá khứ. Thật vậy, bởi vì nghiệp và quả của nghiệp là một trong bốn điều bất khả tư nghì (acinteyya); không nên tư duy suy nghĩ về nghiệp và quả của nghiệp; mà chỉ nên có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp mà thôi. Nếu người nào tư duy suy nghĩ về nghiệp và quả của nghiệp thì người ấy có thể bị loạn trí. Đức Phật Toàn Giác biết rõ nghiệp ác cũ trong vô số tiền kiếp của Ngài không sao kể xiết, song những nghiệp ác cũ nào mà Ngài nêu ra, là vì những nghiệp ác cũ ấy có liên quan cho quả khổ trong kiếp chót của Ngài, trước khi tịch diệt Niết Bàn. Những người nào có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của mình. Nếu những người ấy, khi đang hưởng quả của nghiệp thiện được giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng v.v... họ cảm thấy hoan hỷ, đời sống được hạnh phúc an lạc; thì họ càng có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp của họ; cho nên họ tìm mọi cơ hội tốt để tạo nhiều nghiệp thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền,... Nhờ những nghiệp thiện này nâng đỡ kiếp sống còn của họ được cao thượng, nhất là tạo duyên lành, bồi bổ những pháp hạnh ba-la-mật để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Nếu những người ấy, khi đang chịu đựng quả khổ của nghiệp ác,... thì họ không hề oán trách một ai cả; vì họ tin chắc chắn rằng đó chỉ là quả của nghiệp ác mà chính họ đã tạo trong thời quá khứ; nay đến thời kỳ cho quả, họ cam chịu quả khổ ấy. Họ phát sanh thiện tâm ghê sợ mọi nghiệp ác, tội lỗi, họ cố gắng tránh xa mọi nghiệp ác đầy tội lỗi, để cho thời vị lai họ không phải chịu cảnh khổ não như thế này nữa. Như vậy, những người có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, dù quả của nghiệp thiện hoặc nghiệp ác phát sinh, họ vẫn có thể phát sinh thiện tâm trong sáng, làm chủ được; không bị quả của nghiệp chi phối, không để tâm tham hoặc tâm sân phát sinh. Nghiệp và quả của nghiệp rất công minh không hề thiên vị một ai cả, dù là Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh cũng không thoát khỏi quả khổ của nghiệp ác. Huống gì mỗi người trong chúng ta; khi chúng ta hoan hỷ thọ nhận quả của nghiệp thiện, thì chúng ta cũng nên nhẫn nại thọ nhận quả của nghiệp ác với thiện tâm trong sáng. Người có đức tin nơi nghiệp và quả của nghiệp, tin tưởng rằng: “Nghiệp nào cho quả cũng có thời hạn mãn nghiệp ấy”. Như vậy, nghiệp và quả của nghiệp hoàn toàn không phải là định mệnh, mà nghiệp và quả của nghiệp hoàn toàn tùy thuộc vào định luật nhân - quả mà thôi. Đức Phật dạy nghiệp và quả của nghiệp bằng câu kệ rằng: “Yādisaṃ vapate bījaṃ, tādisaṃ harate phalaṃ “Người nào gieo hạt giống thế nào, Nghiệp có cơ hội sẽ cho quả trong kiếp hiện tại, kiếp sau kế tiếp và kiếp thứ ba cho đến kiếp chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, trước khi tịch diệt Niết Bàn. -ooOoo-
Đức Phật với đại cội bồ đề Tích chuyện tiền kiếp Kaliṅgabodhijātaka Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông Phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi, Ngài thuyết giảng tích tiền kiếp Kaliṅgabodhi [19] trong đoạn đầu được tóm lược như sau: Khi Đức Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana cùng với chư Đại đức Tỳ khưu Tăng đông đảo, đến khi Đức Phật du hành đến nơi khác, thì chư Đại đức Tỳ khưu Tăng cùng đi theo Ngài. Lúc ấy, ngôi chùa Jetavana trở nên trống vắng, không còn một vị nào ở trong chùa cả. Những người cận sự nam, cận sự nữ mang những phẩm vật đến chùa, không thấy Đức Phật và cũng không thấy một Đại đức Tỳ khưu nào cả. Họ không biết dâng lễ cúng dường đến nơi nào, nên họ phải đành đem đến đặt trước cốc Gandhakuṭi của Đức Phật, rồi họ thui thủi trở về nhà, mà không phát sinh tâm hoan hỷ. Được biết như vậy, ông phú hộ Anāthapiṇḍika chờ đợi khi Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng ngự trở lại ngôi chùa Jetavana. Ông phú hộ liền đến gặp đảnh lễ Ngài Đại đức Ānanda và bạch cho Ngài biết rằng: - Kính bạch Ngài, mỗi khi Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng ngự đi du hành đến nơi khác, tại ngôi chùa này trở nên trống vắng. Các người cận sự nam, cận sự nữ đem những phẩm vật đến dâng lễ cúng dường mà không thấy vị nào cả. Họ đành phải đem những phẩm vật đặt trước cửa cốc Gandhakuṭi của Đức Phật, rồi thui thủi trở về nhà, mà không phát sinh tâm hoan hỷ. Kính bạch Ngài, con kính nhờ Ngài bạch lại với Đức Phật rằng: “Đối với các hàng Phật tử còn có nơi nào khác, để dâng lễ cúng dường nữa hay không?”. Nhận lời thỉnh cầu của ông phú hộ, Ngài Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, bèn bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, cetiya là nơi dâng lễ cúng dường có bao nhiêu nơi? Bạch Ngài. - Này Ānanda, cetiya nơi dâng lễ cúng dường có ba nơi. - Kính bạch Đức Thế Tôn, ba nơi ấy là những nơi nào? Bạch Ngài. - Này Ānanda: Ba nơi ấy là: Sāriraka cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá lợi của Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Paribhoga cetiya: Cetiya nơi mà Đức Phật đã sử dụng như Đại cội Bồ đề, những thứ vật dụng của Đức Phật đã dùng. Uddissaka cetiya: Cetiya nơi mà người Phật tử tạo nên tượng Đức Phật, ngôi Bảo tháp v.v... để tôn thờ. Ngài Đại đức Ānanda bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn còn tại thế gian, ba nơi cetiya ấy, các hàng Phật tử có thể dâng lễ cúng dường được hay không? Bạch Ngài. - Này Ānanda, Sāriraka cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá lợi của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì khi nào Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, khi ấy, các hàng Phật tử mới có thể dâng lễ cúng dường cetiya, nơi tôn thờ Xá lợi Đức Phật. Này Ānanda, còn Paribhoga cetiya và Uddissaka cetiya, thì ngay khi Như Lai còn tại thế, các hàng Phật tử cũng có thể dâng lễ cúng dường đến hai nơi cetiya ấy. Này Ānanda, Đại cội Bồ đề được gọi là Paribhoga cetiya, nơi mà Chư Phật sử dụng làm nơi ngồi ngự dưới Đại cội Bồ đề, để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Lắng nghe Đức Phật dạy như vậy, Ngài Đại đức Ānanda bèn bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn du hành ngự đến nơi khác, chư Đại đức Tỳ khưu Tăng cũng đi theo Ngài, tại ngôi chùa Jetavana này trở nên trống vắng. Các người cận sự nam, cận sự nữ mang những phẩm vật đến ngôi chùa này, họ không thấy một ai cả, nên không có nơi nào, để họ dâng lễ cúng dường. Kính bạch Đức Thế Tôn, như vậy, con có thể thỉnh hạt giống Bồ đề từ Đại cội Bồ đề ở khu rừng Uruvela, đem về gieo trồng tại ngôi chùa Jetavana này, để cho các hàng Phật tử làm cetiya nơi dâng lễ cúng dường, có nên hay không? Bạch Ngài. Đức Phật hoan hỷ truyền dạy rằng: - Sādhu! Ānanda ropehi. - Này Ānanda, tốt lắm! Con hãy nên gieo trồng cây Bồ đề tại ngôi chùa này. Evaṃ sante Jetavane mama nibaddhavāso viya bhavissati [20] . Như vậy, khi có cây Bồ đề trong ngôi chùa Jetavana, cũng như là sự thường trú của Như Lai. Sau khi lắng nghe Đức Phật truyền dạy như vậy, Đại đức Ānanda loan báo cho ông phú hộ Anāthapiṇ-ḍika, bà đại thí chủ Visākhā, Đức vua Pasenadi Kosala, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi rằng sẽ trồng cây Bồ đề tại ngôi chùa Jetavana, xin cho người đào lỗ để trồng cây Bồ đề. Khi ấy, Ngài Đại đức Ānanda đến gặp Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và bạch rằng: - Kính bạch Đại đức, đệ muốn trồng một cây Bồ đề tại ngôi chùa Jetavana, kính thỉnh pháp huynh đến Đại cội Bồ đề tại khu rừng Uruvela, thỉnh một hạt giống Bồ đề đem về cho đệ. Ngài Đại đức Mahāmoggallāna nhận lời, liền dùng phép thần thông bay đến khu rừng Uruvela, bay xung quanh Đại cội Bồ đề, để tìm hạt Bồ đề nào già chín, sắp lìa khỏi cành. Ngài dùng tấm y hứng hạt giống Bồ đề, không để rơi xuống mặt đất, thỉnh đem về trao cho Ngài Đại đức Ānanda. Ngài Đại đức Ānanda đón nhận hạt giống Bồ đề bằng cái đĩa vàng một cách cung kính. Tiếp đến, Ngài Đại đức Ānanda loan báo cho Đức vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi tụ hội để làm lễ trồng cây Bồ đề. Khi mọi người đã tụ hội đông đủ tại ngôi chùa Jetavana; đầu tiên, Đại đức Ānanda thỉnh cái đĩa vàng có đựng hạt giống Bồ đề trao cho Đức vua Pasenadi Kosala, để gieo trồng cây Bồ đề. Đức vua cung kính đón nhận từ tay của Ngài Đại đức Ānanda và suy nghĩ rằng: Ta tuy là Vua, nhưng người xứng đáng để gieo trồng cây Bồ đề này phải là ông phú hộ Anāthapiṇḍika. Nghĩ vậy, Đức vua liền trao cái đĩa đựng hạt giống Bồ đề lại cho ông phú hộ; ông phú hộ cung kính đón nhận từ tay của Đức vua. Tiếp theo, ông phú hộ rải phân bón xuống lỗ, rồi hai tay cung kính bưng cái đĩa vàng đựng hạt giống Bồ đề gieo xuống lỗ và phủ một lớp đất lên mặt. Lúc ấy, mọi người đông đảo đều nhìn thấy, một điều thật là phi thường, chưa từng có bao giờ! Ngay khi vừa gieo xong, liền mọc lên một cây Bồ đề cao 50 hắc tay (cùi tay), có 5 nhánh, mỗi nhánh tỏa dài 50 hắc tay, trở thành một Đại cội Bồ đề to lớn, mà tất cả bốn phương, tám hướng đều nhìn thấy rõ. Đức vua Pasenadi Kosala liền dâng cúng dường 18 đóa hoa sen, tưới nước trong sạch vào gốc cây, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ đều vô cùng hoan hỷ, lần lượt dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề một cách cung kính. Xung quanh Đại cội Bồ đề được xây bốn bức thành hàng rào và cổng ra vào bằng các loại đá rất quý; phần nền gần gốc cây Bồ đề được lót bằng một loại đá quý, để làm nơi dâng lễ cúng dường của các hàng Phật tử. Ngài Đại đức Ānanda vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đã trồng Đại cội Bồ đề xong, kính thỉnh Đức Thế Tôn ngự đến sử dụng Đại cội Bồ đề. Khi Đức Thế Tôn sử dụng Đại cội Bồ đề, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài. Theo sự thỉnh cầu của Ngài Đại đức Ānanda, Đức Thế Tôn ngự đến sử dụng Đại cội Bồ đề nhập Arahán Quả suốt đêm. Ngài Đại đức Ānanda loan báo cho Đức vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi tụ hội tại Đại cội Bồ đề, để làm đại lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề. Do đó, Đại cội Bồ đề có tên gọi là: “Ānanda bodhi: Đại cội Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”. Đại cội Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, tại nền ngôi chùa cổ Jetavana, tỉnh Sāvatthi, xứ Ấn Độ. Đối với các hàng Phật tử là bậc xuất gia, cũng như hàng tại gia là cận sự nam, cận sự nữ phải hết lòng tôn kính cây Bồ đề, bởi vì, khi chúng ta tôn kính cây Bồ đề là như tôn kính Đức Phật vậy. Cho nên, tại mỗi Đại cội Bồ đề là một nơi tôn nghiêm, mà mỗi người Phật tử phải có bổn phận chăm sóc bảo tồn, thường xuyên quét dọn lau chùi sạch sẽ và thường đến lễ bái, dâng lễ cúng dường Đại cội Bồ đề như lễ bái dâng lễ cúng dường Đức Phật vậy. -ooOoo-
Tượng Đức Phật - Tượng Đức Phật có từ thời kỳ nào? - Xuất hiện lần đầu tiên ở đâu? Sở dĩ có câu hỏi này, là vì qua các thời kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi từ lần thứ nhất cho đến lần thứ tư. Trong đó, dạy người Phật tử là bậc xuất gia Tỳ khưu, Tỳ khưu ni và các hàng tại gia là cận sự nam, cận sự nữ phải nên tôn kính Đại cội Bồ đề như tôn kính Đức Phật, không nên chặt cành có tính chất phá hoại cây Bồ đề. Hằng ngày, người Phật tử có phận sự chăm sóc, quét dọn sạch sẽ xung quanh Đại cội Bồ đề, là một nơi tôn nghiêm, xứng đáng là nơi dâng lễ cúng dường đối với Phật tử có đức tin nơi Tam Bảo. Thời kỳ Đức vua Asoka (Phật lịch 218), Đức vua là một Đấng Minh Quân có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hộ độ trong kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần thứ ba tại chùa Asokārāma xứ Pāṭiliputta. Vào năm Phật lịch 236, Đức vua hộ độ phái đoàn gồm 5 vị Đại đức, do Ngài Đại đức Mahinda [21] làm trưởng đoàn, đi sang Đảo quốc Srilankā để truyền bá Phật giáo. Vào thời kỳ ấy, Đức vua Devanampiyatissa trị vì Đảo quốc Srilankā, là bạn thân thiết của Đức vua Asoka. Đức vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều, dân chúng hân hoan đón rước phái đoàn chư Đại đức Tăng rất trọng thể. Phái đoàn chư Đại đức Tăng thuyết pháp truyền bá giáo pháp của Đức Phật, Đức vua cùng các quan trong triều và dân chúng phần đông phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có số xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu, có số xin thọ phép quy y Tam Bảo, trở thành người cận sự nam, cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cho đến trọn đời. Ngoài ra còn có số cận sự nữ muốn xuất gia trở thành Tỳ khưu ni; do đó, Ngài Đại đức Mahinda cho người trở về tâu với Đức vua Asoka gửi phái đoàn chư Đại đức Tỳ khưu ni sang Đảo quốc Srilankā. Cung nghinh cây Bồ đề sang Đảo quốc Srilankā Đức vua Asoka chấp thuận gửi phái đoàn chư Đại đức Tỳ khưu ni, do Đại đức Tỳ khưu ni Saṃghamittā [22]làm trưởng đoàn, phái đoàn có cung nghinh một cây Bồ đề sang trồng trên Đảo quốc Srilankā. Đức vua Asoka làm lễ tiễn đưa cây Bồ đề rất long trọng, Đức vua truyền lệnh sứ giả sang trước, để tâu lên Đức vua Devanampiyatissa cũng làm lễ đón rước cây Bồ đề cho trọng thể. Thật vậy, Đức vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều và rất đông đảo dân chúng đứng chờ sẵn ở bến thuyền. Khi thuyền của phái đoàn chư Đại đức Tỳ khưu ni tăng cùng với cây Bồ đề vừa cập bến, chính Đức vua Devanampiyatissa đến cung nghinh cây Bồ đề từ trên tay của chư Đại đức Tỳ khưu ni và cùng đón rước phái đoàn chư Đại đức Tỳ khưu ni lên Đảo quốc Srilankā. Như vậy, thời ấy chỉ có cây Bồ đề được đưa sang trồng trên Đảo quốc Srilankā, mà không đề cập đến tượng của Đức Phật. Do đó, tượng Đức Phật có từ thời kỳ nào? Thật khó mà xác định chính xác, song do căn cứ của một vài sử liệu cho rằng: - Tượng Đức Phật có từ thời kỳ Phật lịch thế kỷ thứ VI, do các nhà nghệ thuật người Karika có đức tin theo Phật giáo, trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa. Những nhà nghệ thuật này tư duy rằng: - Phái Bàlamôn có các tượng thần linh để họ dâng lễ cúng dường, thì Phật giáo cũng nên có tượng Đức Phật để làm nơi lễ bái, dâng lễ cúng dường. Do đó, các nhà nghệ thuật điêu khắc này học hỏi, nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật làm cơ bản, làm nền tảng để họ sáng tạo nên tượng Đức Phật đầu tiên. Một sử liệu khác cho rằng: - Tượng Đức Phật đầu tiên có vào khoảng thời gian Phật lịch 700, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn; do các nhà nghệ thuật điêu khắc, tạo hình trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa. Tượng Đức Phật có phù hợp với Phật giáo hay không? Tượng Đức Phật thuộc trong Uddissaka cetiya: Cetiya nơi mà người tạo nên tượng Đức Phật, ngôi Tháp Bảo v.v... để tôn thờ, lễ bái cúng dường... cho nên, tượng Đức Phật phù hợp với Phật giáo. -ooOoo-
BIỂU TƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO * Đại cội Bồ đề là một biểu tượng đặc biệt nhất của Phật giáo, bởi vì Đức Bồ Tát Siddhattha đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tại dưới Đại cội Bồ đề. Đó là cây Đại cội Bồ đề của Đức Phật Gotama. Người Phật tử lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề cũng như lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đức Phật. (như trong tích chuyện: “Cây Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”). * Bánh xe Chuyển Pháp Luân gồm có 12 căm là sự luân chuyển của Tam Tuệ Luân: Trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành trong Tứ Thánh Đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật giáo. Cho nên, bánh xe Chuyển Pháp Luân cũng là biểu tượng của Phật giáo. Hai biểu tượng này, nếu người Phật tử nào có sự hiểu biết Phật Pháp sâu sắc, thì mới có thể nhận thức, biết được tính chất cao thượng của biểu tượng. Tượng Đức Phật là một biểu tượng Phật giáo Tượng Đức Phật cũng là một biểu tượng đặc biệt trong Phật giáo, tượng Đức Phật là một hình ảnh rất sống động, gần gũi với con người nhất, con người rất dễ cảm nhận, rất dễ gây những ấn tượng sâu sắc nhất. Cho nên, tượng Đức Phật là một biểu tượng, một hình ảnh dễ liên tưởng đến Đức Phật, là ngôi cao cả nhất mà các hàng Phật tử hết lòng thành kính lễ bái cúng dường Tượng Đức Phật theo mỹ thuật của mỗi dân tộc Đức Phật dạy: Một Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát ấy có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là lời dạy của Đức Phật, mà hình ảnh tiêu biểu thì hoàn toàn không có; cho nên, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình theo óc tưởng tượng của mình, dựa theo nền mỹ thuật của dân tộc mình để sáng tạo tượng Đức Phật. Trong quá khứ, tất cả các nhà nghệ thuật đầu tiên điêu khắc tượng Đức Phật, không có một ai nhìn thấy kim thân của Đức Phật bao giờ. Mỗi nhà nghệ thuật, có một quan niệm riêng về cái đẹp và khả năng thẩm mỹ đều khác nhau. Mặc dù họ đã học hỏi nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật, nhưng óc tưởng tượng của mỗi nhà nghệ thuật mang cá tính và tinh thần của dân tộc mình. Vì vậy, tượng Đức Phật Gotama được tạo ra qua mỗi thời kỳ, mỗi dân tộc, bởi mỗi nhà nghệ thuật có hình dáng hoàn toàn không giống hệt nhau. Tuy nhiên, cũng có một vài đường nét và tính chất chung, tương đối giống nhau; cho nên, khi mọi người Phật tử nhìn thấy tượng thờ, thì có thể nhận biết được đó là tượng Đức Phật Gotama.Do đó họ liền liên tưởng đến Đức Phật có 9 Ân đức cao thượng, nên phát sinh đức tin trong sạch, tỏ lòng tôn kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường một cách cung kính. Lễ bái cúng dường tượng Đức Phật như thế nào? Tượng Đức Phật dù làm bằng chất liệu gì, làm bằng xi măng cốt sắt, hoặc bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng hoặc bằng đá quý, hoặc bằng gỗ quý; thậm chí tượng Đức Phật bằng giấy, dù nhỏ, dù lớn v.v..., thì người Phật tử cũng không phải lễ bái cúng dường nơi tượng Đức Phật xi măng cốt sắt, hoặc tượng Đức Phật đồng, tượng Đức Phật bạc, tượng Đức Phật vàng, hoặc tượng Đức Phật đá quý, hoặc tượng Đức Phật gỗ quý , hoặc tượng Đức Phật giấy v.v... Thật ra, người Phật tử khi nhìn thấy, chiêm ngưỡng tượng Đức Phật ấy, cần phải liên tưởng đến 9 Ân đức Phật, cho nên khi lễ bái là lễ bái đến 9 Ân đức Phật, khi cúng dường là cúng dường đến 9 Ân đức Phật, khi niệm Phật là niệm đến 9 Ân đức Phật v.v... Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng bên ngoài, để liên tưởng đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình. Do đó, tượng Đức Phật tạo nên bằng chất liệu gì, hình dáng, tư thế... khác nhau như thế nào, cũng chỉ là đối tượng hình thức bên ngoài mà thôi. Khi người Phật tử chiêm bái, cung kính đảnh lễ, dâng lễ cúng dường... nơi tượng Đức Phật, thì phải luôn luôn tâm niệm đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình. Tuy nhiên, hình dáng, tư thế tượng Đức Phật cũng có tác động đến tư tưởng, tình cảm của người Phật tử. Cho nên, thời xưa ở xứ Ấn Độ, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình tượng Đức Phật trong tư thế ngồi đang Chuyển Pháp Luân, phía dưới Bồ đoàn, ở giữa có bánh xe Chuyển Pháp Luân, hai bên có 2 con naivà nhóm 5 Tỳ khưu. Đó là một hình ảnh rất sống động, gợi lại cho người Phật tử một ấn tượng về quá khứ, lần đầu tiên Đức Phật thuyết bài Kinh Chuyển Pháp Luân tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana; để tế độ nhòm 5 Tỳ khưu: Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji. Khi người Phật tử nào chiêm ngưỡng tượng Đức Phật trong tư thế Chuyển Pháp Luân, diễn tả lại bối cảnh lịch sử đầu tiên trong Phật giáo, người Phật tử ấy dễ dàng phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, mà quên những điều ưu phiền trong đời, tâm được thanh tịnh an lạc. Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng giúp cho người Phật tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, chính nhờ đức tin này sẽ làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh và tăng trưởng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp đến Siêu tam giới thiện pháp, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài. -ooOoo- [1] Đức Bồ Tát Siddhattha đản sinh ra đời vào ngày rằm tháng tư âm lịch; Ngài đi xuất gia vào ngày rằm tháng sáu năm 29 tuổi; Ngài chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vào ngày rằm tháng tư năm 35 tuổi; Ngài tịch diệt Niết Bàn vào ngày rằm tháng tư, năm 80 tuổi. [2] 3 tháng ở cõi người, thời gian ở cõi trời Tam Thập Tam Thiên khoảng 3 phút 36 giây ; bởi vì, cứ 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm ở cõi người. [3] 80 tuổi kể từ khi đầu thai vào lòng Phật mẫu vào ngày rằm tháng sáu (âm lịch) [4] Tasmātihānanda attadīpā vihartha attasaraṇa anaññasaraṇā, dhamma-dīpā dhammasaraṇā anaññasaraṇā... Attā ở đây có nghĩa sabhavadhammā, đó là tam giới thiện pháp và Siêu tam giới thiện pháp. [5] Dīghanikaya, bộ Mahāvagga, kinh Mahāparicnibhānasutta. [6] Sūkuramaddava: Món thịt heo chín mềm, ngon bổ đặc biệt nhất. Một số bậc tiền bối có ý kiến cho rằng: - Sūkuramaddava: là món cơm nấu bằng sữa bò tươi, sữa chua, bơ đặc, bơ lỏng... món ăn rất bổ dưỡng, (còn có nghĩa nấm heo). - Sūkuramaddava: Là món ăn được nấu theo cách rasāyatanavidhi từ bộ sách xưa Rasāyatanasattha. Ông Cunda hy vọng rằng: Nhờ món ăn bổ dưỡng này, Đức Thế Tôn duy trì được sinh mạng, không tịch diệt Niết Bàn. Món Sūkuramaddava đặc biệt nay có chư thiên bỏ thêm thiên vị, cho nên chỉ có Đức Thế Tôn mới có thể tiêu hóa được mà thôi. [7] Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh Mahāparinibhānasutta. [8] Bộ Apadāna, Buddhāpadāna pubbakammapiloti. [9] Bộ Khud. Apadāna aṭṭhakathā. [10] Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, chuyện Ciñcāmāṇavikāvatthu. [11] Chuyện nàng Cincāmānavikā đầy đủ trong quyển “Sự tích 8 Phật Lực”. [12] Bát thiền: Đó là 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc. [13] Ngũ thông: Thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, túc mạng thông và tha tâm thông. [14] Bộ Chú giải Jātaka câu chuyện Serivavāṇijātaka. [15] Chuyện voi Nālāgiri đầy đủ xin đọc thêm trong quyển “Sự tích 8 Phật Lực”. [16] Bộ Chú giải Pháp Cú, chuyện Viḍaḍūbhavatthu. [17] Aṅguttaranikāya, trong kinh Abhiṇhasutta… [18] Bộ Samyuttanikāya, phần Sagāthavagga. [19] Bộ chú giải Jātaka, Tích chuyện Kaliṅgabodhijātaka. [20] Bộ chú giải Jātaka, tích tiền kiếp Kaliṅgabodhijātaka. [21] Ngài Đại đức Mahinda là bậc Thánh Arahán, vốn là Thái tử của Đức vua Asoka. [22] Đại đức Tỳ khưu ni Samghamittā là bậc Thánh Arahán, vốn là Công chúa của Đức vua Asoka. <span" style="caret-color: rgb(0, 0, 0); color: rgb(0, 0, 0); font-style: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; orphans: auto; text-align: start; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: auto; word-spacing: 0px; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration: none;"> -ooOoo- </span"> from https://theravada.vn/chuong-i-c-45-ha-vassa-cua-duc-phat-gotama/ CHƯƠNG I (b) 32 TƯỚNG TỐT CỦA BẬC ĐẠI NHÂN Đức Phật thuyết giảng Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót và chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát ấy, khi đản sinh ra đời đều có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân như sau: 1) Hai bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất... 2) Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận. 3) Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân). 4) Ngón tay dài và tròn trịa, đều đặn, thon như hình búp măng. 5) Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại. 6) Năm ngón tay, trừ ngón tay cái ra, 4 ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở. 7) Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay. 8) Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con sơn dương. 9) Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối. 10) Ngọc hành được giấu kín trong bao da. 11) Toàn thân có da màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng. 12) Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân hình. 13) Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông. 14) Lông có màu xanh và xoắn về bên phải, đầu lông hướng lên mặt. 15) Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm thiên. 16) Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương). 17) Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa. 18) Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không thấy xương vai). 19) Chiều cao của thân bằng sải tay, và sải tay bằng chiều cao của thân (cũng như chiều cao của cây Nigrodha có chiều ngang bằng nhánh của cây ấy). 20) Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ). 21) Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể. 22) Cái cằm giống cằm của sư tử chúa. 23) Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng. 24) Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp. 25) Hai hàm răng sắp đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở. 26) Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp. 27) Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp; lưỡi lớn có thể trùm được cả mặt lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ tai. 28) Giọng nói như giọng của phạm thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng chim karavīka. 29) Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp. 30) Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh. 31) Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng dài mềm mại, xoắn bên phải, đầu lông hướng lên trên đầu rất đẹp. 32) Cái đầu tròn và có vầng trán cao rộng đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang vành tai bên trái. Đó là 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân được biểu hiện đầy đủ trong thân hình của Thái tử Siddhattha, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu Đức Phật Gotama. Đức Phật dạy rằng: - Này chư Tỳ khưu, nhóm Đạo sĩ ngoại đạo có thể học hỏi ghi nhớ đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân này, nhưng nhóm Đạo sĩ ấy không thể biết rằng: “Mỗi tướng tốt của bậc Đại nhân là quả của thiện nghiệp nào”. Thiện nghiệp cho quả 32 tướng tốt 32 tướng tốt chính của Đức Bồ Tát là quả của thiện nghiệp. Thiện nghiệp không những cho quả tướng tốt của bậc Đại nhân, mà còn cho quả rộng lớn, vô cùng phong phú đối với Đức Bồ Tát ấy và đối với mọi chúng sinh khác có liên quan đến Đức Bồ Tát ấy. Trong bài kinh Lakkhaṇasutta, Đức Phật giảng giải thiện nghiệp nào cho quả các tướng tốt nào, và các quả liên quan đến thiện nghiệp ấy. 32 tướng tốt của bậc Đại nhân ra quả của những thiện nghiệp như sau: 1- Tướng tốt: Bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ: Là người có quyết tâm cao độ trong mọi thiện pháp, không hề lay chuyển, khi thân hành thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện. Khi làm phước bố thí, thọ trì ngũ giới, bát giới (uposathasīla) trong những ngày giới hằng tháng...; trong việc phụng dưỡng cha mẹ, hộ độ Samôn, Bàlamôn, trong sự cung kính những bậc Trưởng lão trong dòng họ và trong đời... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới, là một thiên nam có nhiều oai lực hơn tất cả các hàng chư thiên khác về 10 quả báu trong cõi trời ấy là: Tuổi thọ sống lâu, sắc đẹp, sự an lạc, danh thơm tiếng tốt, quyền lực cao nhất, sắc, hương, vị, xúc trong cõi trời ấy. Khi mãn kiếp thiên nam, cũng do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: * Bàn chân bằng phẳng, vững vàng đạp trên mặt đất, chạm toàn bàn chân (gót chân, giữa bàn chân, đầu ngón chân) bằng phẳng đầy đặn tiếp xúc cùng một lúc với mặt đất [1] . Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước, có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Mọi kẻ thù đều chịu hàng phục theo Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Không còn kẻ thù bên trong là phiền não: tham, sân, si..., và không có kẻ thù bên ngoài như: Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên, hay bất cứ một ai... trong đời này có thể gây tai hại cho Đức Phật được. 2- Tướng tốt: Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người có thiện tâm trong sạch giúp đỡ nhiều người, đem lại sự an lạc cho nhiều người; làm giảm được sự sợ hãi kinh hồn cho nhiều người, trông nom bảo vệ mọi người một cách hợp pháp. Đặc biệt, khi làm phước bố thí là chính, thì thường có kèm theo những thứ phụ khác v.v... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: * Hai lòng bàn chân có dấu bánh xe, trục xe có một ngàn căm và đầy đủ các bộ phận. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước, có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có bộ hạ tùy tùng đông đảo đó là các quan cận thần, các tướng lĩnh, các quân lính, các Hoàng tử anh hùng dũng cảm, các hàng Bàlamôn, cư sĩ, toàn thể thần dân thiên hạ tất cả đều một lòng trung thành với Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Các hàng đệ tử đông đảo, đó là chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên v.v... có đức tin trong sạch nơi Đức Phật. 3- Tướng tốt: Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân). 4- Tướng tốt: Ngón tay dài và tròn trịa, đầy đặn, thon như hình búp măng. 5- Tướng tốt: Thân hình ngay ngắn như thân hình phạm thiên. Ba tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không sát sanh, tránh xa sự sát sanh, bỏ gậy gộc, bỏ khí giới, có tâm hổ thẹn tội lỗi, tâm bi thương xót chúng sinh, mong tìm sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc đến tất cả chúng sinh. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 3 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Hai gót chân dài (bằng một phần tư bàn chân). - Đức Bồ Tát có 3 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có tuổi thọ sống lâu, giữ gìn tuổi thọ sống lâu, mà kẻ thù nào cũng không thể sát hại Đức Chuyển Luân Thánh Vương được. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có tuổi thọ sống lâu, giữ gìn tuổi thọ sống lâu, mà kẻ thù nào dù là Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương hoặc bất cứ một ai trong đời... đều không thể sát hại Đức Phật Chánh Đẳng Giác được. 6- Tướng tốt: Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, hai bả vai và cổ (không nhìn thấy gân và xương). Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người làm phước bố thí vật thực gồm các món ăn toàn là những món ăn cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ dưỡng... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 1 tướng tốt của bậc Đại nhân: Bảy nơi trong thân hình có thịt đầy đặn là hai mu bàn tay, hai mu bàn chân, cổ và hai bả vai (không nhìn thấy gân và xương). Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Thường được thọ thực toàn những món cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ dưỡng. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Thường được thọ thực toàn những món cao lương mỹ vị, các thức uống ngon lành bổ dưỡng. 7- Tướng tốt: Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại. 8- Tướng tốt: Năm ngón tay, trừ ngón tay cái ra, bốn ngón còn lại đều dài bằng nhau, khít vào nhau, và năm ngón chân dài bằng nhau, khít vào nhau, không có kẽ hở. Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ, thường hành 4 pháp tế độ: - Bố thí đến chúng sinh nào cần sự bố thí. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Hai bàn tay, hai bàn chân mềm mại. Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Các bộ hạ tùy tùng một lòng trung thành với Đức Chuyển Luân Thánh Vương; các bộ hạ tùy tùng đó là các quan cận thần, các tướng lĩnh, các quân lính, các Hoàng tử, các hàng Bàlamôn, gia chủ, toàn thể thần dân thiên hạ..., luôn tuân theo lệnh của Đức vua, làm cho Đức vua rất hài lòng. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Các hàng đệ tử đều có đức tin trong sạch nơi Đức Phật. Các hàng đệ tử đó là Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, Long vương, chư thiên, chư phạm thiên đều trở thành bậc thiện trí, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, lắng nghe chánh pháp và hành theo chánh pháp của Đức Phật. 9- Tướng tốt: Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay. 10- Tướng tốt: Lông có màu xanh và xoắn về bên phải, đầu lông hướng lên mặt... Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người thường hay nói lời có ý nghĩa sâu sắc, hợp với thiện pháp, hướng dẫn dạy bảo cho mọi người làm mọi phước thiện, là người có thiện tâm trong sáng, có tâm từ mong đem lại sự lợi ích, sự an lạc đến cho tất cả chúng sinh, và đặc biệt là người thường kính trọng chánh pháp, cúng dường chánh pháp. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Hai mắt cá nằm cao cách bàn chân độ 2-3 lóng tay. Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Đức vua là người vĩ đại nhất, người cao thượng nhất, người đứng đầu cao cả nhất trong thần dân thiên hạ... Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Đức Phật là Bậc vĩ đại nhất, Bậc cao thượng nhất, Bậc cao cả nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh. 11- Tướng tốt: Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con sơn dương. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người có thiện tâm, thiện chí giảng dạy các môn học, hoặc hướng dẫn nghề nghiệp... bằng cách suy nghĩ rằng: “Làm cách nào, với phương pháp nào giúp cho mọi người, dễ hiểu, dễ biết, nhanh chóng thành đạt... mà không phải chịu vất vả khổ cực lâu ngày”. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân. Đôi chân thon, phần trên lớn rồi nhỏ dần xuống dưới, tròn đẹp như đôi chân con sơn dương. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có long xa sang trọng xứng đáng với địa vị Đức Chuyển Luân Thánh Vương, có đội quân hùng mạnh là bộ hạ tùy tùng của Đức vua, và những thứ đồ dùng xứng đáng với địa vị của Đức vua được phát sinh như ý. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có những thứ vật dụng thích hợp với Samôn, có các hàng đệ tử là những bậc Thánh Tối thượng Thanh Văn, bậc Thánh Đại Thanh Văn, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, và những đồ dùng của Samôn được phát sinh như ý. 12- Tướng tốt: Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân hình. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người thường đến gần gũi, thân cận các bậc Samôn, Bàlamôn, và bạch hỏi rằng: Kính bạch Ngài. Thế nào là thiện nghiệp? Thế nào là bất thiện nghiệp? Thế nào là có tội? Thế nào là vô tội? Nghiệp nào nên làm? Nghiệp nào không nên làm? Nghiệp nào đã tạo rồi cho quả xấu, chịu đau khổ lâu dài? Nghiệp nào đã tạo rồi sẽ cho quả tốt, hưởng an lạc lâu dài?... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: Làn da mịn màng, do làn da mịn màng, trơn nhẫy, nên bụi không thể bám vào thân hình. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Đức Chuyển Luân Thánh Vương là người có trí tuệ bậc nhất trong đời, mà những người tại gia không một ai có trí tuệ sánh được với Đức vua. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Đức Phật có trí tuệ ưu việt, trí tuệ rộng rãi, trí tuệ nhanh nhẹn, trí tuệ sắc bén, trí tuệ diệt đoạn tuyệt mọi phiền não... trong tất cả mọi chúng sinh, không một ai có trí tuệ sánh được với Đức Phật. 13- Tướng tốt: Toàn thân có da màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không có tính sân hận, nóng nảy, không có tức giận, dù khi người khác đến chọc tức, có tâm nhẫn nại không nổi giận, không bực tức, không buồn bực, không tỏ nỗi bất bình hiện rõ ra bên ngoài; còn là người thường làm phước bố thí đồ mặc bằng những thứ vải rất tốt đẹp, mịn màng như lụa, thứ vải dệt bằng lông thú..., những tấm vải để lót nằm cũng rất tốt đẹp và mịn màng. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: Toàn thân da có màu vàng, óng ánh xinh đẹp như màu vàng ròng. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có những đồ trang phục bằng những thứ vải rất tốt, quý giá mịn màng như lụa, lông thú... và những đồ lót nằm cũng bằng những thứ vải quý giá, rất tốt đẹp mịn màng. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có những tấm y bằng những thứ vải rất tốt, quý giá mịn màng như lụa, v.v... Và những đồ lót nằm cũng bằng những thứ vải quý giá, rất tốt đẹp mịn màng. 14- Tướng tốt: Ngọc hành được giấu kín trong bao da. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người thường hay đi tìm kiếm những người thất lạc lâu ngày đem trở về gặp lại người thân yêu như: tìm đứa con thất lạc đem trở về gặp lại cha mẹ, hoặc đi tìm người cha, hoặc mẹ thất lạc đem trở về gặp lại đứa con, đem em gặp lại anh, hoặc đem anh gặp lại em, đem em gặp lại chị, hoặc đem chị gặp lại em, v.v... Khi những người thân yêu gặp lại với nhau, họ vô cùng vui mừng sung sướng, Đức Bồ Tát cũng vui mừng sung sướng cùng với niềm vui của họ. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại: Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: Ngọc hành được giấu kín trong bao da. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có hơn một ngàn Hoàng tử đều là những người anh hùng dũng cảm, có nhiều oai lực chiến thắng mọi kẻ thù. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có rất nhiều đệ tử là bậc Thánh Thanh Văn dũng cảm, có nhiều oai lực chiến thắng tuyệt đối mọi kẻ thù phiền não Ma vương, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não tham ái. 15- Tướng tốt: Chiều cao của thân bằng sải tay, sải tay bằng chiều cao của thân; cũng như chiều cao của cây Nigrodha có chiều ngang bằng cành của cây ấy. 16- Tướng tốt: Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối. Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người biết rõ những nhu cầu thiết yếu của người nên tế độ, biết rõ người này xứng đáng được tế độ vật này, người kia xứng đáng được tế độ vật kia. Khi biết rõ như vậy, rồi tế độ người ấy đúng theo nhu cầu thiết yếu của từng người. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại: Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: Chiều cao của thân bằng sải tay, sải tay bằng chiều cao của thân; cũng như chiều cao của cây Nigrodha có chiều ngang bằng cành của cây ấy. Khi đứng thẳng, không cúi người xuống, hai bàn tay có thể sờ đụng hai đầu gối. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có nhiều của cải tài sản, có nhiều châu báu, vàng bạc, mọi thứ của cải đồ dùng đều rất đáng hài lòng, các kho đầy của cải, lúa gạo. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Có nhiều tài sản quý báu, đó là đức tin, giới, hổ thẹn với tội lỗi, ghê sợ tội lỗi, nghe nhiều hiểu rộng, bố thí, trí tuệ; đặc biệt hơn nữa là của báu Siêu tam giới 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, đó cũng gọi là của báu. 17- Tướng tốt: Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ). 18- Tướng tốt: Hai hốc bả vai có thịt đầy đặn (không nhìn thấy xương vai). 19- Tướng tốt: Thân hình trên dưới đầy đặn như thân hình phía trên của sư tử chúa. Ba tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người có thiện tâm trong sạch mong tìm sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc, sự giải thoát khỏi mọi ràng buộc cho phần đông chúng sinh. Với thiện tâm suy nghĩ rằng: “Làm thế nào giúp cho những người ấy phát triển đức tin trong sạch, phát triển giới trong sạch, phát triển sự hiểu biết nghe nhiều hiểu rộng, phát triển mọi thiện pháp, phát triển sự bố thí, phát triển trí tuệ. Đời sống của họ được phát triển của cải, lúa gạo ruộng vườn, gia súc; phát triển con cháu, bà con dòng họ, bạn bè v.v...” Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 3 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Cổ tròn trịa đầy đặn (khi nói không nổi gân cổ). Đức Bồ Tát có 3 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Không bị suy thoái mọi thiện pháp và cũng không bị suy thoái của cải tài sản, đàn gia súc; không bị suy thoái con cháu bà con, bạn bè... Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Không bị suy thoái đức tin, giới, sự hiểu biết, nghe nhiều hiểu rộng, sự bố thí, trí tuệ v.v... 20- Tướng tốt: Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không làm khổ tất cả chúng sinh bằng chân tay hoặc bằng gậy gộc, bằng khí giới... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: Bảy ngàn dây thần kinh rất tinh tế, tụ hội từ lưỡi đến cổ, tiếp nhận hương vị vật thực để nuôi dưỡng cơ thể. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Ít bệnh hoạn đau ốm, ít vất vả; có đầy đủ chất ấm trong cơ thể giúp cho sự tiêu hóa vật thực dễ dàng; cơ thể không nóng quá, cũng không lạnh quá. - Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Ít bệnh hoạn ốm đau, ít vất vả; có đầy đủ chất ấm trong cơ thể giúp cho sự tiêu hóa vật thực dễ dàng; cơ thể không nóng quá, cũng không lạnh quá. 21- Tướng tốt: Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp. 22- Tướng tốt: Đôi mắt tựa như đôi mắt con bê mới sinh. Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không trợn mắt nhìn, là người có tâm chánh trực, có thói quen tự nhiên nhìn thẳng mọi người với tâm từ, bằng đôi mắt dịu hiền đáng yêu mến... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Đôi mắt xanh sẫm và trong sáng rất đẹp. Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Tất cả mọi người đều kính yêu Đức Chuyển Luân Thánh Vương, Ngài là nơi hài lòng kính yêu của các hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm Bàlamôn, phú hộ,... Tất cả thần dân thiên hạ đều kính yêu Đức Chuyển Luân Thánh Vương và chỉ có một lòng trung thành tuyệt đối với Người. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Phần đông chúng sinh đều kính trọng Đức Phật, Đức Phật là nơi nương nhờ duy nhất của chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni, các cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên. Tất cả các hàng đệ tử có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, luôn luôn kính yêu Đức Phật. 23- Tướng tốt: Cái đầu tròn, và có vầng trán cao, rộng, đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang vành tai bên trái. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người đứng đầu mọi người trong mọi thiện pháp, là người dẫn đầu mọi người trong các thiện pháp như thân hành việc thiện, khẩu nói điều thiện, ý nghĩ điều thiện; việc làm phước bố thí, thọ trì ngũ giới, bát giới (uposathasila), phụng dưỡng cha mẹ, hộ độ Samôn, Bàlamôn, kính trọng các bậc Trưởng lão trong dòng họ, trong đời. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: Cái đầu tròn, và có vầng trán cao rộng đẹp, đi vòng từ vành tai bên phải sang vành tai bên trái. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Mọi người tin theo Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Ngài là người đứng đầu cao cả nhất trong các Hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm Samôn, Bàlamôn, phú hộ, v.v...Tất cả thần dân thiên hạ đều tin theo Đức Chuyển Luân Thánh Vương và chỉ có một lòng trung thành tuyệt đối theo Người. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Phần đông chúng sinh có đức tin theo Đức Phật, Đức Phật là nơi nương nhờ duy nhất của chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni, các cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên... Tất cả các hàng đệ tử có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, chỉ có nhất tâm tin theo Đức Phật mà thôi. 24- Tướng tốt: Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông. 25- Tướng tốt: Sợi lông uṇṇa mọc trên trán, ở khoảng giữa hai đầu lông mày, có màu trắng, dài mềm mại xoắn bên phải, đầu lông hướng lên phía trên đầu rất đẹp. Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không nói dối, tránh xa sự nói dối, không nói lời lừa dối mọi người; chỉ nói lời chân thật, mỗi lời nói có chứng cứ, đem lại sự lợi ích. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Mỗi sợi lông mọc ở mỗi lỗ chân lông. Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Mọi người có đức tin theo lời truyền dạy của Đức Chuyển Luân Thánh Vương, và tuyệt đối tuân theo lệnh của Người. Chánh cung Hoàng hậu, các Hoàng tử, các Công chúa, các quan, các tướng lĩnh, quân lính, nhóm Bàlamôn, phú hộ cho đến toàn thể thần dân thiên hạ một lòng tin nơi Đức Chuyển Luân Thánh Vương và tuyệt đối tuân theo lệnh của Người. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Các hàng Thanh Văn đệ tử lắng nghe theo lời giáo huấn của Đức Phật, phát sinh đức tin trong sạch và thực hành theo lời dạy của Ngài. Các hàng Thanh Văn đệ tử đó là chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên đều có đức tin trong sạch nơi Đức Phật và thực hành theo lời dạy của Ngài. 26- Tướng tốt: Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng. 27- Tướng tốt: Hai hàm răng sắp đều đặn và khít vào nhau, không có kẽ hở. Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ: Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không nói lời đâm thọc chia rẽ, tránh xa lời nói đâm thọc chia rẽ; chỉ nói lời làm cho mọi người đoàn kết, tin tưởng nhau, thương yêu nhau; ca tụng tình đoàn kết thương yêu nhau, hoan hỷ khi mọi người đoàn kết gắn bó với nhau. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Đầy đủ 40 cái răng: Hàm trên 20 cái răng và hàm dưới 20 cái răng. Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Các bộ hạ tùy tùng của Đức Chuyển Luân Thánh Vương không bị chia rẽ, đoàn kết gắn bó với nhau: Các bộ hạ tùy tùng đó là các Hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm Bàlamôn, phú hộ, toàn thể thần dân thiên hạ trong nước đều đoàn kết gắn bó với nhau, chỉ một lòng trung thành tuyệt đối với Đức Chuyển Luân Thánh Vương mà thôi. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật không bị chia rẽ, đoàn kết gắn bó với nhau. Các hàng Thanh Văn đệ tử đó là: Chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên đều đoàn kết gắn bó với nhau, chỉ có đức tin trong sạch nơi Đức Phật mà thôi, một lòng lo phụng sự Tam Bảo, duy trì chánh pháp của Đức Phật. 28- Tướng tốt: Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp. Lưõi lớn có thể trùm được cả mặt, lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ tai. 29- Tướng tốt: Giọng nói như giọng phạm thiên, rõ ràng, trong trẻo, ngọt ngào như tiếng chim karavīka. Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không nói lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc, tránh xa lời thô tục, chửi rủa mắng nhiếc; chỉ nói lời không có lỗi, nghe êm tai, làm hài lòng người nghe. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người. Quả tốt trong kiếp hiện tại: Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Lưỡi lớn và dài, mềm mỏng, có màu đỏ hồng xinh đẹp. Lưỡi lớn có thể trùm được cả mặt, lên đến chân tóc, và lưỡi dài có thể le ra đến tận hai lỗ mũi, hai lỗ tai. Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Lời nói của Đức Chuyển Luân Thánh Vương được phần đông mọi người tin theo. Phần đông mọi người đó là các Hoàng tử, các quan, các tướng lĩnh, các quân lính, các nhóm Bàlamôn, phú hộ, toàn thể thần dân thiên hạ đều tuyệt đối tin theo lời của Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Lời giáo huấn của Đức Phật được tất cả các hàng Thanh Văn đệ tử tin theo. Các hàng Thanh Văn đệ tử đó là: Chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ, nhân loại, chư thiên, Long vương, chư phạm thiên tin theo lời giáo huấn của Đức Phật. 30- Tướng tốt: Cái cằm giống như cằm sư tử chúa. Tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không nói lời vô ích, tránh xa sự nói lời vô ích; chỉ nói lời có ích hợp thời, lời chân thật, có ý nghiã sâu sắc, hợp với pháp, hợp với luật, có chứng cớ rõ ràng, đem lại sự lợi ích thật sự. Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được tướng tốt của bậc Đại nhân: Cái cằm giống như cằm sư tử chúa. Đức Bồ Tát có tướng tốt này. Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Không có một kẻ thù nào có thể gây tai hại đến Đức Chuyển Luân Thánh Vương được. Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Không có kẻ thù bên trong là phiền não, tham, sân, si... Không có kẻ thù bên ngoài là Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương, phạm thiên hoặc không một ai trong đời có thể gây tai hại đến Đức Phật Chánh Đẳng Giác được. 31- Tướng tốt: Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp. 32- Tướng tốt: Bốn cái răng nhọn sạch sẽ, trắng đẹp. Hai tướng tốt này là quả của thiện nghiệp nào? Thiện nghiệp trong kiếp quá khứ Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác đã từng sinh làm người trải qua nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ: Là người không sống theo tà mạng, chỉ sống theo chánh mạng mà thôi. Tránh xa mọi cách lừa đảo như cân gian, đồ giả, đong thiếu, lừa dối, tráo trở; tránh xa sự trộm cắp, cướp của giết người... Sau khi mãn kiếp người, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới... Khi mãn kiếp thiên nam, do thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người Quả tốt trong kiếp hiện tại Là Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót có được 2 tướng tốt của bậc Đại nhân: - Hàm răng trên và dưới đều đặn, có màu trắng xinh đẹp. Đức Bồ Tát có 2 tướng tốt này. - Nếu Đức Bồ Tát ấy sống tại gia, thì sẽ trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, là Đức Pháp Vương trị vì thần dân thiên hạ trên toàn cõi đất nước có 4 biển làm ranh giới... Có đầy đủ thất báu là Long xa báu, voi báu, ngựa báu, ngọc báu, người nữ báu (chánh cung Hoàng hậu báu), phú hộ báu và thừa tướng báu, có hơn một ngàn Hoàng tử đều là những người anh hùng dũng cảm có khả năng dẹp tan mọi đội quân của kẻ thù. Đức Chuyển Luân Thánh Vương có khả năng thắng mọi kẻ thù bằng thiện pháp, không dùng đến quyền lực hình phạt, không dùng đến khí giới, trị vì trên toàn cõi đất nước. Toàn thể thần dân thiên hạ sống trong cảnh thanh bình thịnh vượng, không có chiến tranh, không có trộm cắp, cướp của giết người... Khi đã là Đức Chuyển Luân Thánh Vương, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Bộ hạ tùy tùng của Đức Chuyển Luân Thánh Vương đều có thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, thân tâm được an lạc. Bộ hạ tùy tùng đó là chánh cung Hoàng hậu, các Hoàng tử, các Công chúa, các quan cận thần, các tướng lĩnh, các nhóm Bàlamôn, dân chúng trong thành, ngoại thành, toàn dân trên toàn cõi đất nước đều có thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, thân tâm thường được an lạc. - Nếu Đức Bồ Tát ấy từ bỏ nhà đi xuất gia, thì sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Khi đã là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thiện nghiệp ấy cho quả đặc biệt là: Các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Chánh Đẳng Giác đều có thiện tâm trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, bởi vì, bậc Thánh Thanh Văn đệ tử đã diệt đoạn tuyệt được phiền não, tham ái. Các hàng Thanh Văn đệ tử đó là chư Tỳ khưu, chư Tỳ khưu ni, các hàng cận sự nam, cận sự nữ, chư thiên, chư phạm thiên là những bậc Thánh. Dù những hàng Thanh Văn đệ tử còn phàm chưa phải bậc Thánh Nhân, nhưng họ cũng có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có giới trong sạch, có thiện pháp phát triển và tăng trưởng, có thiện tâm trong sáng. Như vậy, các hàng Thanh Văn đệ tử này của Đức Phật Chánh Đẳng Giác xem như trong sạch, không bị phiền não làm ô nhiễm. -ooOoo-
Nhận xét về nghiệp và quả của nghiệp Nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng sinh là một trong bốn điều “bất khả tư nghì” đối với tất cả chúng sinh; chỉ có Đức Phật Chánh Đẳng Giác mới có trí tuệ đặc biệt thấy rõ biết rõ được nghiệp và quả của nghiệp không chỉ đối với Ngài, mà còn đối với tất cả chúng sinh muôn loài nữa. Thiện nghiệp, ác nghiệp của chúng sinh nào, thiện nghiệp hoặc ác nghiệp có cơ hội cho qua trong thời kỳ tái sinh (paṭisandhikāla) chỉ riêng cho chúng sinh ấy mà thôi, hoàn toàn không liên quan đến các chúng sinh khác. Song quả của thiện nghiệp, ác nghiệp: nghĩa là thiện nghiệp cho quả tốt, an lạc; còn ác nghiệp cho quả xấu, khổ não, trong thời kỳ sau khi đã tái sinh (pavattikāla) không chỉ riêng cho chúng sinh ấy mà quả của thiện nghiệp, hoặc quả của ác nghiệp ấy còn có thể gây ảnh hưởng gián tiếp liên quan đến các chúng sinh khác có quan hệ với chúng sinh ấy. Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama trải qua vô số kiếp đã tạo các pháp hạnh ba-la-mật từ thời kỳ phát nguyện ở trong tâm, khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ; đến thời kỳ phát nguyện ra bằng lời nói, khoảng thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ, cho đến thời kỳ được Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama; trải qua các khoảng thời gian ấy, Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật là thiện nghiệp có mục đích cứu cánh để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, những thiện nghiệp ấy được tích lũy từ kiếp này sang kiếp khác, liên tiếp nhau không gián đoạn, cho đến kiếp chót cho quả tái sinh làm người là kiếp Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha, khi Ngài hạ sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân (mahāpurisalakkhaṇa), và 80 tướng tốt phụ (anubyañjana); đó là quả của thiện nghiệp ba-la-mật của Đức Bồ Tát đã tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ. Đức Phật dạy trong kinh Lakkhaṇasutta, mỗi tướng tốt đều do quả trực tiếp của mỗi thiện nghiệp ba-la-mật, được biểu hiện nơi kim thân của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ; do đó, các vị Bàlamôn trí thức học rộng, hiểu biết bộ sách xem tướng của dòng dõi Bàlamôn, mới có thể suy đoán biết Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha, khi trưởng thành sẽ đi xuất gia và chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Thật vậy, đúng theo lời suy đoán của các vị Bàlamôn trí thức, Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha đi xuất gia năm 29 tuổi, và trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác năm 35 tuổi, đó là quả của các thiện nghiệp ba-la-mật có mục đích cứu cánh của Ngài; đặc biệt quả của các thiện nghiệp ba-la-mật ấy, không chỉ riêng cho Đức Phật, mà còn có ảnh hưởng tốt đến các hàng Thanh Văn đệ tử của Ngài, từ thế hệ xưa cho đến thế hệ ngày nay, và còn tiếp tục đến thế hệ mai sau, cho đến khi giáo pháp của Đức Phật bị mai một hoàn toàn. -ooOoo-
80 tướng tốt phụ của Đức Bồ Tát kiếp chót Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, khi Ngài đản sinh ra đời có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân (mahāpurisalakkhaṇa) và 80 tướng tốt phụ(anubyañjana). Như trong bài kinh Āṭānātiyasutta [2] có câu: “Upetā Buddhadhammehi, Aṭṭharasāhi nāyakā Chư Phật có đầy đủ mười tám đức, Trong bộ Jinālaṅraṭīkā trình bày 80 tướng tốt phụ của Ngài như sau:
Đó là 80 tướng tốt phụ của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Phật mẫu Mahāmayādevī quy thiên Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha đản sinh ra đời đến ngày thứ bảy, chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī quy thiên, bởi vì, bà đã hết tuổi thọ. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī hưởng thọ được 56 năm 4 tháng 27 ngày ở cõi người. Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm vị thiên nam tên Santussita trong cõi trời Tusita (Đẩu Suất Đà Thiên) tầng trời thứ tư trong 6 cõi trời dục giới. Tầng trời thứ tư này, chư thiên có tuổi thọ 4.000 năm tuổi trời, so với thời gian cõi người bằng 576 triệu năm; bởi vì 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm ở cõi người. Tuyển chọn nhũ mẫu Đức vua Suddhodana truyền lệnh tuyển chọn nhũ mẫu để nuôi dưỡng Thái tử Siddhattha. Những người đàn bà đủ tiêu chuẩn được tuyển chọn có 240 người, trong đó chọn 60 bà trực tiếp lo phục vụ Thái tử; ngoài ra, còn có 60 lính hầu và 60 vị quan trông coi việc nuôi dưỡng Thái tử. Khi Hoàng hậu Mahāmayādevī quy thiên, Đức vua Suddhodana tấn phong bà Mahāpajāpatigotamī (em của bà Mahāmayādevī) lên ngôi vị chánh cung Hoàng hậu. Bà chánh cung Hoàng hậu Mahāpajāpatigotamī hạ sinh Hoàng tử Nanda, sau Thái tử Siddhattha 2-3 ngày. Bà Mahāpajāpatigotamī vốn là bà dì ruột của Thái tử Siddhattha, bà tự đảm đương địa vị nhũ mẫu nuôi dưỡng Thái tử Siddhattha, còn Hoàng tử Nanda, con đẻ của bà, giao cho nhũ mẫu khác nuôi dưỡng. Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha trưởng thành bằng bầu sữa ngọt lành của nhũ mẫu chánh cung Hoàng hậu Mahāpajāpatigotamī. Cuộc đời Thái tử Siddhattha Năm Thái tử Siddhattha được mười sáu (16) tuổi thì Đức vua Suddhodana truyền ngôi báu cho Thái tử. Trong buổi lễ đăng quang lên ngôi vua của Thái tử Siddhattha cùng với lễ thành hôn với Công chúa Yasodharā, Đức vua Siddhattha tấn phong Công chúa Yasodharā lên ngôi vị chánh cung Hoàng hậu. Đức vua trị vì đất nước được thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp. Đức Thái Thượng Hoàng Suddhodana muốn Đức vua Siddhattha trở thành Đức Chuyển Luân Thánh Vương, không muốn Đức Bồ Tát đi xuất gia để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác; cho nên, Đức Thái Thượng Hoàng truyền lệnh cho các quân lính ngăn cấm người già, người bệnh, người chết và bậc xuất gia, phải xa cách không để cho Đức vua Siddhattha nhìn thấy họ. Đức Bồ Tát lên ngôi vua an hưởng sự an lạc trên ngai vàng thời gian trải qua 12 năm, chưa từng thấy cảnh nào để phát sinh động tâm (saṃvega). Nguyên nhân Đức Bồ Tát đi xuất gia Những sự kiện xảy ra theo tuần tự thời gian, khiến Đức Bồ Tát quyết định đi xuất gia. * Lần đầu tiên, vào ngày rằm tháng 6, Đức vua Bồ Tát đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bỗng nhiên Ngài nhìn thấy một người già, do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài phát sinh động tâm (samvega).Thật vậy, Ngài chưa từng nhìn thấy người già như thế bao giờ, cho nên Ngài suy tư: “Chắn chắn ta cũng có sự già như thế, không thể tránh khỏi sự già được”. Nỗi ưu tư tràn ngập trong lòng, không còn muốn đi du lãm nữa, Ngài truyền bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung. * Lần thứ nhì, cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 10, Đức vua lại đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, lần này Ngài nhìn thấy một người bệnh, cũng do chư thiên biến hóa. Như lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự bệnh như thế, không thể tránh khỏi sự bệnh được”. Tâm trạng u buồn, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung. * Lần thứ ba, cũng cách 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 2, để vơi bớt nỗi buồn, Đức vua lại muốn đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, bất chợt Ngài nhìn thấy một người chết, cũng do chư thiên biến hoá. Như hai lần trước, Ngài suy tư: “Chắc chắn ta cũng có sự chết như thế, không thể tránh khỏi sự chết được”. Nỗi lo sợ phát sinh trong lòng, Ngài truyền lệnh bảo người đánh xe đưa Ngài hồi cung. Từ đó, Đức Bồ Tát lúc nào cũng suy tư về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài tự hỏi, có con đường nào giải thoát sự già, sự bệnh, sự chết hay không? Sở dĩ có sự già, sự bệnh, sự chết là vì có sự tái sinh. Ôi! Sự tái sinh đáng kinh sợ thật! * Lần thứ tư, 4 tháng sau, vào ngày rằm tháng 6, để khuây khỏa nỗi u buồn, lo sợ trong lòng, một lần nữa, Đức vua đi du lãm vườn thượng uyển. Trên đường đi, Ngài nhìn thấy một bậc xuất gia đang tĩnh tọa dưới cội cây, tỏ vẻ an nhiên tự tại, cũng do chư thiên biến hóa, để làm cho Ngài nghĩ đến việc xuất gia. Thật vậy, khi Đức Bồ Tát nhìn thấy bậc xuất gia Ngài liền trút bỏ được mọi nỗi ưu tư nặng trĩu trong lòng về sự già, sự bệnh, sự chết. Ngài quyết định xuất gia ngay đêm ấy, để tìm con đường giải thoát khỏi sự tái sinh, là giải thoát khổ già, khổ bệnh, khổ chết... Hôm ấy, Đức Bồ Tát cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên Ngài vẫn tiếp tục đi du lãm vườn thượng uyển. Khi Đức Bồ Tát hồi cung, ngay trong đêm ấy Ngài nghe tin Hoàng hậu Yasodharā đã hạ sinh Hoàng tử, tình thương con trỗi dậy trong lòng, Ngài than rằng: “Sự ràng buộc lớn!”. Do đó, Hoàng tử được đặt tên là “Rāhula”. Mặc dù vậy, chí nguyện xuất gia của Đức Bồ Tát vẫn không thay đổi; đêm ấy, Ngài đến tìm Channa, quan giữ ngựa thân tín rồi bảo: - Này Channa, đêm nay ta sẽ rời hoàng cung đi xuất gia, ngươi hãy sửa soạn cho ta con ngựa Kandaka ngay bây giờ, và nhớ không để cho một ai hay biết. Bỗng nhiên Ngài thoáng nghĩ: “Trước khi xuất gia, ta nên đến nhìn mặt Hoàng nhi”. Ngài lén vào phòng Hoàng hậu Yasodhara, dưới ánh đèn mờ nhạt, Hoàng hậu đang nằm nghiêng, choàng cánh tay trái qua Hoàng nhi, vì đứng đằng sau nên không thể nhìn rõ mặt, Ngài thầm nghĩ: “Nếu ta đến gần e rằng Hoàng hậu sẽ thức giấc, làm trở ngại việc xuất gia của ta trong đêm nay. Bây giờ, ta chưa nhìn thấy mặt Hoàng nhi, thì chờ sau khi ta chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta sẽ trở về gặp sau cũng không muộn”. Đức Bồ Tát nhẹ nhàng bước ra, lên ngựa Kandaka, còn Channa đi theo sau, vào lúc nửa đêm ngày rằm tháng sáu âm lịch, Ngài đã trốn khỏi hoàng cung đi xuất gia. Mỗi vó ngựa đều có bàn tay chư thiên nâng đỡ, không phát ra tiếng động, nên không một ai hay biết; khi đến cửa thành thì liền có chư thiên mở cửa cho ngựa Kandaka phi nhanh qua. Đức Bồ Tát đi qua khỏi ba xứ: xứ Sakya, xứ Koliya và xứ Malla khoảng 30 do tuần chỉ trong một đêm. Đến bờ sông Anoma, Ngài ra hiệu cho ngựa Kandaka bay sang bờ bên kia, rồi Ngài nhẹ nhàng xuống ngựa bảo Channa rằng: - Này Channa, ta sẽ xuất gia tại nơi đây, con hãy mang hết đồ trang phục nầy trở về hoàng cung tâu cho Phụ vương ta biết. Đức Bồ Tát lấy thanh gươm bén cắt tóc, chừa lại khoảng 2 lóng tay. Tất cả những sợi tóc còn lại tự xoắn vòng xoáy theo khu ốc sang bên phải nằm sát trên da đầu và Ngài cạo sạch râu. Chỉ một lần ấy thôi, từ đó về sau suốt cả cuộc đời, Ngài không phải cắt tóc, cạo râu nữa. Sau khi cắt tóc xong, Đức Bồ Tát cầm nắm tóc trên tay phát nguyện rằng: - Nếu ta trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho nắm tóc này ở trên hư không, còn nếu ta không chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì nắm tóc này sẽ rơi xuống đất. Đức Bồ Tát ném nắm tóc lên hư không. Thật phi thường thay! Nắm tóc bay bỗng lên trên hư không khoảng một do tuần rồi đứng yên một chỗ. Lúc ấy, Đức vua trời Sakka nhìn thấy bèn đem cái hôp bằng ngọc, cung kính đặt nắm tóc của Đức Bồ Tát vào hộp, đem về tôn thờ ở ngôi tháp Culamanī tại cung Tam Thập Tam Thiên. Khi ấy, vị đại phạm thiên Ghaṭikāra, là bạn thân cũ từ tiền kiếp của Đức Bồ Tát trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, biết Đức Bồ Tát hôm nay xuất gia, nên mang 8 thứ vật dụng của bậc Samôn là tam y, bình bát, dao cạo, kim chỉ, dây thắt lưng và đồ lọc nước đến dâng cúng Ngài. Đức Bồ Tát mặc y vàng màu lõi mít, tượng trưng như lá cờ chiến thắng của bậc Thánh Arahán, trở thành bậc xuất gia, lúc Đức Bồ Tát được 29 tuổi. Đức Bồ Tát thọ giáo pháp hành thiền định Đức Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp hành thiền định. Trải qua một thời gian tiến hành thiền định không lâu, Đức Bồ Tát đã chứng đắc được tứ thiền hữu sắc, và chứng đắc đến đệ tam thiền vô sắc gọi là: Vô sở hữu xứ thiền(Akincannāyatanajjhāna) ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. Vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta tán dương ca tụng tài đức của Đức Bồ Tát rằng: - Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, thì hiền giả cũng chứng đắc được bậc thiền vô sắc ấy. Hiền giả đã chứng đắc bậc thiền vô sắc nào, thì tôi cũng chứng đắc được bậc thiền vô sắc ấy. Này hiền giả, từ nay, hai chúng ta cùng làm Đạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này. Ngài nghĩ rằng: “Bậc đệ tam thiền vô sắc Vô sở hữu xứ thiền này sẽ cho quả tái sinh lên cõi phạm thiên vô sắc giới, Vô sở hữu xứ thiền, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh, lão, bệnh, tử, luân hồi trong tam giới”. Đức Bồ Tát không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Ngài xin từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử. Sau khi từ giã vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta, Đức Bồ Tát tìm đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp môn thiền định. Trải qua thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc và chứng đắc đệ tứ thiền vô sắc gọi là: “Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền” (Nevasannānāsannā-yatanajjhāna), là bậc thiền tột đỉnh của thiền vô sắc giới, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc. Vị Đạo sư tán dương ca tụng Ngài rằng: - Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh nào, hiền giả cũng chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô sắc tột đỉnh ấy. Này hiền giả, tôi xin thỉnh hiền giả làm Đạo sư dạy dỗ nhóm đệ tử này. Ngài suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô sắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiền này sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời phạm thiên vô sắc giới, Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ uẩn, không diệt tận được tham ái, không đoạn tuyệt được phiền não, không chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, không tịch diệt Niết Bàn, không giải thoát được mọi cảnh khổ sinh, lão, bệnh, tử, luân hồi trong tam giới”. Ngài xin từ giã Đạo sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử. Đức Bồ Tát hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyā) Sau khi từ giã vị Đạo sư Udaka Rāmaputta, Đức Bồ Tát đi đến khu rừng Uruvela gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5 Tỳ khưu: Ngài Kondanna là trưởng nhóm cùng các Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji, xin theo hộ độ Đức Bồ Tát. Đức Bồ Tát tinh tấn hành pháp khổ hạnh (Dukkaracariyā), phương pháp nín thở ra-vô bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai; rồi tiếp tục nín thở ra-vô bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi nóng phát ra toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Ngài chết ngất. Có số chư thiên tưởng rằng: “Samôn Gotama đã chết rồi!” Số khác tưởng rằng: “Samôn Gotama đang gần chết!”. Số khác cho rằng: “Samôn Gotama không phải chết, cũng không phải đang gần chết, mà Samôn Gotama đang hành pháp bậc Thánh Arahán!”. Ngài tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giảm xuống chỉ còn bằng hạt sen... Do đó, kim thân của Ngài gầy ốm chỉ còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng, thì đụng phải đường xương sống. Trước kia kim thân của Đức Bồ Tát có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời; đến nay, các tướng tốt chính và các tướng tốt phụ đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm. Một hôm Đức Bồ Tát suy xét: “Ta đã hành pháp khổ hạnh đến chỗ cùng tột rồi. Trong quá khứ, chưa từng có Samôn, Bàlamôn nào đã hành pháp khổ hạnh đến mức như ta đang hành. Hiện tại và vị lai cũng sẽ không có Samôn, Bàlamôn nào có thể hành pháp khổ hạnh như ta; thế mà, ta không thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Như vậy, chắc chắn phải còn có một pháp hành nào khác”. Đức Bồ Tát hồi tưởng lại rằng: “Khi còn nhỏ cùng Phụ vương ra đồng làm lễ hạ điền, Phụ vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận (đào). Ta đã ngồi niệm đề mục hơi thở vô - hơi thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền hữu sắc. Vậy, chắc chắn pháp hành thiền định này làm nền tảng, ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cũng nên”. Đức Bồ Tát xét thấy rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe yếu đuối, ta không thể tiến hành thiền định đề mục niệm hơi thở vô - hơi thở ra được. Vậy điều tốt hơn hết, ta nên thọ thực trở lại, cho có sức khỏe rồi ta mới có thể tiến hành thiền định”. Đức Bồ Tát từ bỏ khổ hạnh, đi khất thực Đức Bồ Tát đã hành pháp khổ hạnh suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục đích chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, nên Ngài đã từ bỏ hành pháp khổ hạnh. Đức Bồ Tát mang bát vào xóm Senā đi khất thực; thọ thực được thời gian không lâu, sức khoẻ của Ngài được hồi phục trở lại. Trong thời kỳ hành pháp khổ hạnh, 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ biến mất. Nay kim thân Ngài lại hiện rõ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ, có nước da màu vàng sáng ngời như trước. Vào ngày 14 tháng tư âm lịch, canh chót đêm ấy, Đức Bồ Tát nằm thấy 5 đại mộng (Mahāsupina). Qua 5 đại mộng này, Ngài đoán biết rằng Ngài chắc chắn sẽ chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Sáng hôm rằm tháng tư âm lịch, Ngài đi đến ngồi dưới gốc cây da để chờ đến giờ đi vào xóm khất thực. Tại nơi đây, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn chư thiên, theo lời nguyện của nàng. Nàng Sujātā là con gái của ông phú hộ Mahāsena ở làng Senā gần khu rừng Uruvela, khi nàng trưởng thành có đến gốc cây da này cầu nguyện rằng: “Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, giai cấp và sinh được một đứa con trai đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện, thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên”. Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý; cho nên, hằng năm vào ngày rằm tháng tư âm lịch, nàng thường đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn chư thiên. Từ sáng sớm, nàng Sujātā đã thức dậy vắt sữa tinh khiết của 8 con bò, khi nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, thì dòng sữa tự nhiên chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt 7 con bò còn lại, dòng sữa cũng chảy ra một mạch như vậy. Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên. Sở dĩ, có những việc lạ thường như vậy, là vì buổi sáng hôm ấy có Tứ Đại Thiên Vương trông coi lò lửa, vua trời Sakka lấy củi bỏ vào lò, vua trời phạm thiên che dù, tất cả chư thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa. Nàng Sujātā gọi tớ gái tên Punnā bảo rằng: - Này Punnā, hôm nay chư thiên của ta thật đáng kính, trước đây ta chưa từng chứng kiến những hiện tượng lạ thường như thế này! Con hãy mau đến cội cây da quét dọn cho sạch sẽ, để chúng ta mang cơm sữa đến dâng cúng, tạ ơn chư thiên. Người tớ gái Punnā vâng lời đến gốc cây da để quét dọn, cô nhìn thấy Đức Bồ Tát đang ngồi quay mặt về hướng Đông, từ kim thân của Ngài phát ra hào quang sáng ngời toả khắp quanh vùng, cô nghĩ rằng: “Sáng hôm nay, vị Thiên thần của chúng ta hiện xuống ngồi đợi thọ nhận cơm sữa cúng dường”, nghĩ vậy nên cô vô cùng hoan hỷ vội vàng trở về báo tin mừng cho bà chủ biết. Nàng Sujātā nghe lời tường trình rõ ràng của người tớ gái, trong lòng cảm thấy vui mừng khôn xiết và bảo rằng: - Này Punnā, kể từ hôm nay, con trở thành con gái của ta. Nói xong, nàng ban cho những đồ trang sức quý giá, xứng đáng với địa vị đứa con gái của mình. Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn ra tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt, thì vừa đầy mâm. Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy một chiếc mâm khác đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh. Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội mâm cơm sữa cùng người con gái Punnā đi theo sau đến gốc cây da. Nhìn thấy Đức Bồ Tát có đầy đủ tướng tốt chính của bậc Đại nhân và tướng tốt phụ, hào quang tỏa ra từ kim thân của Ngài sáng khắp vùng. Thấy vậy làm cho nàng lại càng phát sinh đức tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ; vì nàng tưởng rằng Ngài là một vị Thiên thần hiện xuống thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng. Nàng Sujātā cung kính đến gần Đức Bồ Tát, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa cùng bình nước, hoa quả, vật thơm..., cung kính dâng lên Ngài, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, Ngài nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng: - Kính bạch Đức Thiên thần, con thành kính dâng Ngài chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài; con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng được toại nguyện như thế ấy”. Đức Bồ Tát đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật quý giá ấy. Đức Bồ Tát thọ nhận cơm sữa bò của nàng Sujātā Sau khi thọ nhận mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức Bồ Tát đứng dậy rời gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Neranjarā, nơi mà chư Bồ Tát Chánh Đẳng Giác quá khứ, trước khi chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, cũng đều ngự đến đây để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supatitthita. Ngài đặt mâm ở bến Supatitthita, rồi xuống dòng sông Neranjarā tắm. Khi tắm xong, Ngài mặc y cà sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh Arahán; đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ (49 ngày), Đức Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết Bàn). Sau khi độ cơm xong, Ngài cầm chiếc mâm vàng phát nguyện rằng: - Nếu hôm nay ta được chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không, thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước. Nguyện xong, Ngài ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông. Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn khá xa, chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Đức Phật quá khứ là Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana và Đức Phật Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng: “Hôm qua một Đức Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức Phật nữa xuất hiện”, rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ. Trưa hôm ấy, Đức Bồ Tát nghỉ trong một khu rừng Sāla, bên bờ sông Neranjarā, những cây Sāla tự nhiên đua nhau nở hoa khắp cả khu rừng. Chiều hôm ấy, Ngài ngự đến cội cây Assattha, dọc theo hai bên đường, chư thiên trang hoàng những đoá hoa trời rất xinh đẹp, các hàng chư thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng sinh. Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ tên Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Đức Bồ Tát, nhìn thấy Ngài, liền phát sinh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ. Đức Bồ Tát cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha. Khi đứng hướng Nam của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng: “Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”. Ngài ngự đi sang hướng khác. Khi đứng hướng Tây của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Đông, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Đông được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ rằng: “Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác. Khi đứng hướng Bắc của cội cây, Ngài nhìn thẳng hướng Nam, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh, Ngài nghĩ rằng: “Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác”. Ngài ngự sang hướng khác. Ngôi Bồ đoàn toàn thắng Ác MaThiên Sau cùng, đứng hướng Đông của cội cây, Ngài nhìn thẳng về hướng Tây, thật phi thường thay! Ngài có cảm giác toàn cõi thế giới thăng bằng, Ngài nghĩ rằng: “Chính đây là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh Đẳng Giác”. Ngài trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội Assattha. Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên trở thành ngôi Bồ đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một Bồ đoàn tuyệt đẹp như vậy! Bởi vì, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do phước báu ba-la-mật tròn đủ của Đức Bồ Tát sắp trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Ngài ngồi kiết già vững vàng trên ngôi Bồ đoàn quý báu, quay mặt về hướng Đông rồi phát nguyện rằng: - Dầu cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dầu sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi Bồ đoàn này. Lúc ấy, từ cung Tha Hoá Tự Tại Thiên, Ác Ma Thiên hoá ra hàng ngàn cánh tay đều cầm khí giới, cỡi voi Girimekhala cầm đầu đoàn thiên ma binh, thiên ma tướng rầm rộ hiện xuống vây quanh cội Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tranh giành ngôi Bồ đoàn của Đức Bồ Tát. Mới đây, chư thiên, phạm thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Đức Bồ Tát, khi thoáng nhìn thấy Ác Ma Thiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống; tất cả chư thiên, phạm thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ ở của mình, chỉ còn một mình Đức Bồ Tát đang điềm nhiên, ngự trên ngôi Bồ đoàn. Ác Ma Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Đức Bồ Tát, để chiếm đoạt ngôi Bồ đoàn, với mục đích ngăn cản không cho Đức Bồ Tát chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Do oai lực 30 pháp hạnh ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức Bồ Tát sắp chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại được Ngài. Quả thật như thế, do oai lực pháp hạnh ba-la-mật của Đức Bồ Tát, các loại vũ khí và phép thuật của Ác Ma Thiên đều hóa thành những vật cúng dường Ngài. Ngồi trên lưng voi Girimekhala, Ác Ma Thiên vô cùng căm uất chỉ tay về Đức Bồ Tát nói như ra lệnh: - Này Samôn Gotama, nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi Bồ đoàn ấy, vì ngôi Bồ đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi! Đức Bồ Tát từ tốn đáp lại: - Này Ác Ma Thiên, ngôi Bồ đoàn quý báu này phát sinh do phước thiện của 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành mà Như Lai đã tạo từ vô số kiếp. Do đó, ngôi Bồ đoàn này thuộc về của Như Lai, không phải của ngươi. Khi ấy, chỉ một mình Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức Bồ Tát cả, nên Ác Ma Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức Bồ Tát rằng: - Thưa Samôn Gotama, Ngài nói rằng: “Ngôi Bồ đoàn quý báu ấy thuộc về của Ngài. Vậy ai làm chứng cho Ngài!” Nhìn xung quanh đều không có một chư thiên, phạm thiên nào cả, Đức Bồ Tát bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất như truyền dạy bằng lời chân thật rằng: “Trong những tiền kiếp, Như Lai đã từng tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật, 5 hạnh đại thí, 3 pháp hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng sinh nào đứng ra làm chứng cho Như Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như Lai được không?”. Thật phi thường thay! Lời chân thật của Đức Bồ Tát vừa chấm dứt. Lập tức, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác Ma Thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi Girimekhala bỏ chạy trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên; còn đám ma binh thì hỗn quân, hỗn quan vô cùng khiếp sợ, cũng hốt hoảng chạy tán loạn theo chủ soái để thoát thân. Đức Bồ Tát ngự trên Bồ đoàn quý báu dưới cội cây Assattha đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khi ấy, mười ngàn thế giới, chư thiên cõi trời dục giới, phạm thiên cõi trời sắc giới, Long vương dưới thủy cung... toàn thể chư thiên, phạm thiên vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực ba-la-mật của Đức Bồ Tát rằng: Đức Bồ Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi! Do đó, ngôi Bồ đoàn quý báu này gọi là “Aparājitapallaṅka” nghĩa là ngôi Bồ đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác Ma Thiên. Chư thiên, phạm thiên đem những đoá hoa trời xinh đẹp, những hương thơm đến cúng dường, tán dương ca tụng ba-la-mật của Đức Bồ Tát. Đức Bồ Tát chứng đắc Tam Minh, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác Sau khi Đức Bồ Tát đã toàn thắng Ác Ma Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài tiến hành thiền định (samathabhāvanā) với đề mục niệm hơi thở vô - hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc như sau: - Đệ nhất thiền hữu sắc: Có 5 chi thiền (hướng tâm, quan sát, hỷ, lạc, định), do chế ngự được 5 pháp chướng ngại (tham dục, sân hận, buồn chán-buồn ngủ, phóng tâm-hối hận, hoài nghi). - Đệ nhị thiền hữu sắc: Có 3 chi thiền (hỷ, lạc, định), do chế ngự được 2 chi thiền (hướng tâm, quan sát). - Đệ tam thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền (lạc, định), do chế ngự được 1 chi thiền (hỷ). - Đệ tứ thiền hữu sắc: Có 2 chi thiền (xả, định), do chế ngự được 1 chi thiền (lạc, thay bằng chi thiền xả). Đó là 4 bậc thiền hữu sắc làm nền tảng để chứng đắc Tam Minh. TAM MINH (TEVIJJA) 1- Túc mạng minh (Pubbenivāsānussatināna) Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc túc mạng minh: Trí tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp, từ 1 kiếp đến hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp, hàng vạn kiếp, hàng triệu kiếp, hàng triệu triệu kiếp... cho đến vô lượng kiếp không giới hạn [4] . Túc mạng minh là trí tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện nghiệp, bất thiện nghiệp, ba-la-mật, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ... đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết. Túc mạng minh là minh thứ nhất mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch). 2- Thiên nhãn minh (Dibbacakkhunāna) Đức Bồ Tát có đệ tứ thiền hữu sắc, định tâm trong sáng thanh tịnh, thiền tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc thiên nhãn minh: Trí tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá khứ, kiếp vị lai của tất cả chúng sinh như mắt của chư thiên, phạm thiên. Thiên nhãn minh có 2 loại: - Tử sanh minh: Trí tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng sinh sau khi chết, do nghiệp nào cho quả tái sinh cảnh giới nào, thọ khổ, thọ lạc như thế nào... - Vị lai kiến minh: Trí tuệ thấy rõ những kiếp vị lai của tất cả chúng sinh. Chư Phật dùng vị lai kiến minh này để thọ ký chúng sinh trong những kiếp vị lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, hoặc Đức Phật Độc Giác, hoặc bậc Thánh Thanh Văn Giác... Thiên nhãn minh là minh thứ nhì mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch). 3- Lậu tận minh (Āsavakkhayanāna) Đức Bồ Tát dùng đệ tứ thiền hữu sắc làm nền tảng, để tiến hành thiền tuệ, quán xét Thập Nhị Duyên Sanh(Paticcasamuppāda) là đối tượng thiền tuệ của chư Bồ Tát. Ngài quán xét để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận như sau: Do vô minh làm duyên, nên hành sanh. Do hành làm duyên, nên thức sanh. Do thức làm duyên, nên danh sắc sanh. Do danh sắc làm duyên, nên lục nhập sanh. Do lục nhập làm duyên, nên lục xúc sanh. Do lục xúc làm duyên, nên lục thọ sanh. Do lục thọ làm duyên, nên lục ái sanh. Do lục ái làm duyên, nên tứ thủ sanh. Do tứ thủ làm duyên, nên nhị hữu sanh. Do nhị hữu làm duyên, nên tái sinh sanh. Do tái sinh làm duyên, nên lão tử... sanh. Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều sanh, để trí tuệ thiền tuệ thấy ro, biết rõ “sự sinh” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý Khổ Thánh Đế và Nhân sanh Khổ Thánh Đế hay Tập Thánh Đế. Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau: Do diệt tận vô minh, nên diệt hành. Do diệt hành, nên diệt thức. Do diệt thức, nên diệt danh sắc. Do diệt danh sắc, nên diệt lục nhập. Do diệt lục nhập, nên diệt lục xúc. Do diệt lục xúc, nên diệt lục thọ. Do diệt lục thọ, nên diệt lục ái. Do diệt lục ái, nên diệt tứ thủ. Do diệt tứ thủ, nên diệt nhị hữu. Do diệt nhị hữu, nên diệt tái sinh. Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử... Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều nghịch, chiều diệt, để trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ “sự diệt” của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ chứng ngộ chân lý: Diệt Khổ Thánh Đế và Pháp hành diệt Khổ Thánh Đế hay Đạo Thánh Đế. Đức Bồ Tát quán xét Thập Nhị Duyên Sanh - Thập Nhị Nhân Diệt theo chiều thuận - chiều nghịch, chiều sanh - chiều diệt, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh - sự diệt của mỗi pháp, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt 4 pháp trầm luân (āsava) bằng 4 Thánh Đạo Tuệ tuần tự như sau: - Nhập Lưu Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tà kiến trầm luân (ditthāsava), đồng thời các tà kiến khác. - Nhất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại thô (còn loại vi tế chưa diệt được), đồng thời các tâm tham loại thô khác. - Bất Lai Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 1 pháp là tham dục trầm luân (kāmāsava) trong ngũ trần loại vi tế không còn dư sót, đồng thời các tâm tham loại vi tế khác. - Arahán Thánh Đạo Tuệ diệt đoạn tuyệt được 2 pháp là kiếp trầm luân (bhavāsava) và vô minh trầm luân (avijjāsava), đồng thời diệt đoạn tuyệt được hoàn toàn mọi tham ái, phiền não, và các ác pháp không còn dư sót. Đặc biệt diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi tiền khiên tật (vāsanā) tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ. Như vậy, Đức Bồ Tát đã tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng đầu tiên trên thế gian. Do đó, Đức Thế Tôn có danh hiệu là “Sammāsambuddha: Đức Phật Chánh Đẳng Giác”. Lậu tận minh là minh thứ 3 mà Đức Bồ Tát đã chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), vào lúc rạng đông. Ngài đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác cao thượng trong toàn cõi thế giới chúng sinh, tại cội cây Assattha. Do đó, cây Assattha này gọi là Bodhirukkha [5] : cây Bồ đề, đối với Đức Phật Gotama của chúng ta. Mười ngàn thế giới chúng sinh từ mặt đất lên đến cõi sắc giới phạm thiên tột đỉnh, chư thiên, phạm thiên vô cùng vui mừng hoan hỷ thốt lên lời: - Sādhu! Sādhu! - Buddho uppanno! - Dhammo uppanno! - Samgho uppanno! Tiếng tung hô vang dội khắp toàn cõi 10 ngàn thế giới chúng sinh. Điều phi thường chưa từng có trên thế gian này là: - Tất cả các loài hoa đều đua nhau nở để cúng dường đến Đức Phật. - Tất cả các loại cây ăn trái đều cho quả ngon ngọt. - Tất cả những người mù từ lúc đầu thai, khi sanh ra không thấy được gì, thì nay có đôi mắt sáng, có thể nhìn thấy mọi vật trên đời. - Tất cả những người điếc từ lúc đầu thai, khi sinh ra không nghe được âm thanh gì, thì nay hai tai có thể nghe rõ mọi thứ âm thanh. - Tất cả những người què, bại liệt từ lúc đầu thai, khi sanh ra không đi lại được, thì nay có thể đi lại dễ dàng. - Đặc biệt nhất, ở địa ngục Lokantarika rộng lớn tối tăm, nơi giáp ranh với 3 thế giới, dành cho những chúng sinh có tà kiến cố định (niyatamicchāditthi) hoàn toàn không tin nghiệp - quả. Ở địa ngục rất tối tăm đó, dầu ánh sáng của 7 mặt trời mọc lên cùng một lúc, cũng không thể chiếu thấu đến tận nơi; nhưng ánh sáng hào quang của Đức Phật tỏa khắp 10 ngàn thế giới, chiếu sáng đến tận địa ngục Lokantarika. Cho nên, những chúng sinh ở nơi đó có thể nhìn thấy lẫn nhau. Toàn thể mười ngàn thế giới, chư thiên, phạm thiên đem những phẩm vật cao quý và những đóa hoa xinh đẹp cúng dường đến Đức Phật và tán dương ca tụng Đức Phật bằng hàng ngàn bài kệ. Phật Ngôn đầu tiên của Đức Phật Khi ấy, Đức Thế Tôn tự thuyết ở trong tâm bằng 2 bài kệ rằng: 153- “Anekajātisamsāram 154- Gahakāraka! Dittho’si 153- Này người thợ “tham ái” xây nhà “thân” 154- Này “tham ái”, người thợ xây nhà “thân”! Hai bài kệ cảm ứng tự thuyết ở trong tâm, đó là Phật ngôn đầu tiên của Đức Phật (paṭhamabuddhavacana). -ooOoo-
Đức Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn Sau khi Ngài đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng đầu tiên trong 10 ngàn thế giới chúng sinh, nên Ngài có danh hiệu: “Đức Phật Chánh Đẳng Giác”, độc nhất vô nhị. Đức Phật an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ, gồm có 49 ngày như sau: 1- Tuần lễ thứ nhất: Đức Thế Tôn ngự tại Bồ đoàn quý báu, tại cội Bồ đề, ban ngày nhập Arahán Thánh Quả, ban đêm quán xét Thập Nhị Duyên Sanh theo chiều thuận, chiều sanh; quán xét Thập Nhị Nhân Diệttheo chiều nghịch, chiều diệt. Và tiếp theo 6 ngày sau, Đức Thế Tôn nhập Arahán Thánh Quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn, suốt thời gian kể từ ngày 16 tháng 4 đến ngày 22 tháng 4, gọi là tuần lễ “Pallaṅkasattāha”. 2- Tuần lễ thứ nhì: Đức Thế Tôn rời khỏi Bồ đoàn quý báu, ngự về phía Đông Bắc, cách cội Bồ đề 14 sải tay, Ngài đứng nhìn về Bồ đoàn quý báu, nơi mà Ngài đã toàn thắng 5 loại Ma (Māra), đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Đức Thế Tôn đứng nhìn Bồ đoàn quý báu không nháy mắt, suốt 7 ngày đêm, kể từ 23 tháng 4 đến ngày 29 tháng 4, gọi là tuần lễ “Animisasattāha”. 3- Tuần lễ thứ ba: Đức Thế Tôn đi kinh hành trên đoạn đường dài 60 hắc tay, được làm bằng 7 loại châu báu, do chư thiên hóa ra để cúng dường Ngài. Đoạn đường này ở phía Bắc gần cội Bồ đề theo chiều Đông Tây. Đức Thế Tôn hóa phép thần thông Yamakapaṭihāriya thành 2 dòng nước và lửa song song phát ra từ nơi kim thân của Ngài, rồi Ngài ngự đi kinh hành, quán xét về chánh pháp, suốt thời gian kể từ ngày 30 tháng 4 đến ngày 6 tháng 5, gọi là tuần lễ “Caṅkamasattāha”. 4- Tuần lễ thứ tư: Đức Thế Tôn ngự tại lâu đài bằng vàng, ở phía Tây Bắc của cội Bồ đề do chư thiên hóa ra để cúng dường Ngài. Ở đây, Ngài quán xét về Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapitaka) gồm có 7 bộ: Bộ Dhammasaṅganī, bộ Vibhaṅga, bộ Dhātukathā, bộ Puggalapannatti, bộ Kathāvatthu, bộ Yamaka và bộ Patthāna. Suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 13 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ratanagharasattāha”. 5- Tuần lễ thứ năm: Đức Thế Tôn ngự đến cội da ở phía Đông, cách cội Bồ đề 32 sải tay, khi thì Ngài quán xét chánh pháp, khi thì Ngài nhập Arahán Thánh Quả. Khi ấy, có 3 cô thiên nữ: Taṇhā, Aratī và Rāgā là con gái của Ác Ma Thiên, từ cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên hiện xuống, để quyến rũ Đức Phật, với lời nói lẳng lơ và bằng điệu bộ gợi tình. Đức Thế Tôn không quan tâm đến lời nói và điệu bộ của ba nàng, Ngài vẫn an nhiên tự tại nhập Arahán Thánh Quả, an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn. Ba nàng đã dùng hết khả năng của mình, mà không thể cám dỗ được Đức Thế Tôn, đành phải bất lực, vì Đức Thế Tôn là bậc Thánh Arahán đã diệt đoạn tuyệt tất cả mọi tham ái, phiền não, nên không một ai trong tam giới này có thể làm cho tâm Ngài xao động. Ba cô thiên nữ không quyến rũ được Đức Thế Tôn, nên hồi tâm tán dương ca tụng Ngài, rồi từ giã trở về cõi Tha Hóa Tự Tại Thiên. Đức Thế Tôn ngự tại cội da này nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 14 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5, gọi là tuần lễ “Ajapālasattāha”. 6- Tuần lễ thứ sáu: Đức Thế Tôn ngự đến cội me gần hồ Mucalinda, cách xa cội Bồ đề 51 sải tay, ở về phía Đông Nam, Ngài ngồi nhập Arahán Thánh Quả. Khi ấy, trời mưa lớn, rồng chúa Mucalinda hiện ra dùng thân mình cuộn thành vòng tròn, chồng lên 7 lớp để bao bọc xung quanh kim thân Đức Phật, và phồng mang che trên đầu Ngài, để mưa không làm ướt và lạnh. Rồng chúa tỏ lòng thành kính cúng dường Đức Phật. Đức Thế Tôn nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 27 tháng 5, gọi là tuần lễ “Mucalindasattāha”. 7- Tuần lễ thứ bảy: Đức Thế Tôn ngự đến cội cây gọi là Rājāyatana cách xa cội Bồ đề 4 sải tay, ở về phía Nam. Ngài nhập Arahán Thánh Quả suốt 7 ngày đêm, kể từ ngày 28 tháng 5 đến ngày 5 tháng 6, gọi là tuần lễ “Rājāyatanasattāha”. Như vậy, Đức Thế Tôn đã an hưởng pháp vị an lạc giải thoát Niết Bàn suốt 7 tuần lễ, gồm 49 ngày xung quanh cội Bồ đề [9] . Đức Phật suy tư về pháp Siêu Tam Giới Đức Thế Tôn suy xét về 9 pháp Siêu tam giới (Lokuttaradhamma) mà Ngài đã chứng đắc: Tứ Thánh Đế là pháp vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, khó chứng ngộ. Đó là pháp mà chỉ có bậc thiện trí, xa lánh ngũ dục, tiến hành thiền tuệ để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Còn chúng sinh đang bị dính mắc trong ngũ dục, bị say mê trong ngũ dục, bị đắm chìm trong ngũ dục, làm tôi tớ của 108 loại tham ái và làm nô lệ 1.500 loại phiền não, thì khó mà chứng ngộ được chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Đức Phật nghĩ rằng: “Nếu Như Lai thuyết pháp mà chúng sinh không thấu hiểu chánh pháp, không chứng đắc chánh pháp cao thượng, thì chỉ làm cho Như Lai vất vả, mệt nhọc, hoài công vô ích mà thôi!”. Do vậy, lúc này Đức Phật chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh. Theo lệ thường, Chư Phật thuyết pháp cần phải có đầy đủ 2 điều kiện: - Chủ thể: Đức Phật có tâm đại bi (mahākarunā) muốn tế độ chúng sinh giải thoát khỏi mọi cảnh khổ, điều kiện này đã sẵn có nơi Ngài. - Khách thể: Phải có Đại Phạm Thiên thỉnh cầu thuyết pháp tế độ chúng sinh, điều kiện này để làm cho phát sinh đức tin nơi Đức Phật. Vì rằng, các Đạo sĩ, tu sĩ, Samôn, Bàlamôn, Vua chúa, dân chúng, kể cả chư thiên, phạm thiên, đều tôn kính Đại Phạm Thiên. Nay Đại Phạm Thiên tôn kính Đức Phật, thỉnh cầu Đức Phật thuyết pháp tế độ chúng sinh, thì ắt hẳn phần đông chúng sinh nhân loại, chư thiên, phạm thiên,... cũng tôn kính Ngài. Từ sự tôn kính ấy, mới có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng. Khi có đức tin nơi Tam Bảo, Đức Phật thuyết pháp thì tất cả chúng sinh, nhân loại, chư thiên, phạm thiên... mới lắng nghe chánh pháp và thực hành theo chánh pháp của Ngài. Đại Phạm Thiên thỉnh Đức Phật thuyết pháp Đại Phạm Thiên Sahampati biết Đức Phật đang còn do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh, Ngài bèn tuyên bố cho toàn cõi phạm thiên, chư thiên khắp 10 ngàn thế giới hay biết rằng: Nassati vata Bho loko! Này chư vị, toàn thế giới chúng sinh sẽ hủy hoại! Bởi vì, Đức Phật đang do dự chưa muốn thuyết pháp tế độ chúng sinh. Cho nên, Đại Phạm Thiên Sahampaticùng chư thiên, phạm thiên khắp 10 ngàn thế giới hiện xuống, cung kính Đức Thế Tôn, đồng thành kính cung thỉnh: Desetu Bhante Bhagavā dhammam - Kính bạch Đức Thế Tôn, Kính bạch Đức Thế Tôn, Đức Thiện Ngôn, Có số chúng sinh nào phiền não nhẹ, có khả năng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Nếu số chúng sinh ấy, không có được cơ hội lắng nghe chánh pháp của Đức Thế Tôn, thì sự thiệt hại sẽ lớn lao biết dường nào! Nghe qua lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati, với tâm đại bi, Đức Thế Tôn quán xét bằng Phật nhãn (Buddhacakkhu) thấy rõ có số chúng sinh có phiền não nhẹ, có số chúng sinh có phiền não nặng, có số chúng sinh có 5 pháp chủ (tín pháp chủ, tấn pháp chủ, niệm pháp chủ, định pháp chủ, tuệ pháp chủ) đủ năng lực, có số chúng sinh có 5 pháp chủ ít năng lực, có số chúng sinh dễ dạy, có số chúng sinh khó dạy... Ví như có 4 đóa hoa sen [11] : - Có đóa hoa sen vượt qua khỏi mặt nước, chỉ chờ tiếp xúc với ánh sáng mặt trời liền nở ngay ngày hôm đó. - Có đóa hoa sen vươn lên, nằm ngang tầm mặt nước, sẽ chờ nở vào ngày hôm sau. - Có đóa hoa sen còn ở dưới mặt nước, sẽ chờ thời gian 3 hoặc 4 hôm nữa mới nở được. - Có đóa hoa sen còn non vừa mới tượng hình ở dưới nước sâu. Những mầm sen non ấy sẽ làm vật thực cho loài rùa, cá.... Bốn loại hoa sen này được so sánh như 4 hạng người ở trong đời: - Ugghāṭitannuù: Hạng người có trí tuệ bậc thượng, bén nhạy. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp, chưa cần khai triển, hay trong một bài kệ có 4 câu, chỉ được nghe 2 câu đầu, bậc ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn ngay tức khắc. - Vipañcitannū: Hạng người có trí tuệ bậc trung. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp và khai triển, hay được nghe một bài kệ đầy đủ 4 câu, bậc ấy có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. - Neyya: Hạng người có trí tuệ bậc thường. Khi được nghe tiền đề của chánh pháp và khai triển xong, còn cần phải có thời gian thân cận gần gũi với bậc Thánh Nhân, bậc thiện trí hướng dẫn chỉ dạy thêm, bậc ấy mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, trong kiếp hiện tại này. - Padaparama: Hạng người có trí tuệ kém. Dù được nghe nhiều, học nhiều đi nữa hoặc dù có thân cận với bậc thiện trí, họ cũng chưa có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả ngay trong kiếp hiện tại này. Nhưng đây là một cơ hội tốt, một dịp may, để bồi bổ pháp hạnh ba-la-mật, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trong kiếp vị lai. Đức Phật quán xét tất cả chúng sinh bằng Phật nhãn thấy rõ có 4 hạng người như vậy; cho nên, sự thuyết pháp của Ngài sẽ đem lại lợi ích lớn lao cho 3 hạng người trước có thể chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả và Niết Bàn ngay trong kiếp hiện tại, và cũng đem lại lợi ích cho hạng người thứ tư (padaparama) ở kiếp vị lai. Do đó, Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Đại Phạm Thiên Sahampati, Ngài sẽ thuyết pháp tế độ chúng sinh. Đức Thế Tôn dạy rằng: - Này Đại Phạm Thiên Sahampati, trước đây chưa có đủ điều kiện, nên Như Lai chưa chịu thuyết pháp tế độ chúng sinh. Này Đại Phạm Thiên Sahampati, bây giờ, Như Lai nhận lời thỉnh cầu của các ngươi, Như Lai sẽ thuyết pháp tế độ cho những chúng sinh có duyên lành, để giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Vị Đại Phạm Thiên Sahampati cùng toàn thể chư phạm thiên, chư thiên vô cùng hoan hỷ, khi biết Đức Thế Tôn đã nhận lời thỉnh cầu của họ. Toàn thể chư phạm thiên, chư thiên thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời. Trong đời này, chỉ có Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, và chư Bồ Tát Độc Giác kiếp chót là không cần lắng nghe chánh pháp từ một vị Thầy nào, mà tự mình có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng, bởi vì chư Bồ Tát này có nhiều năng lực pháp hạnh ba-la-mật. Ngoài Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác và chư Bồ Tát Độc Giác kiếp chót ra, còn tất cả các Đức Bồ Tát Thanh Văn Giác bậc nào, cũng cần phải lắng nghe chánh pháp của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, mới có thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế y theo Đức Phật, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, đó là bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai, bậc Thánh Bất Lai và bậc Thánh Arahán tùy theo năng lực ba-la-mật của mỗi bậc Thánh Nhân. Thật vậy, trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, Ngài Đại đức Sāriputta là bậc Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác xuất sắc nhất về trí tuệ, trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, vậy mà tự Ngài cũng không thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, cho đến khi Ngài lắng nghe Ngài Đại đức Assaji thuyết dạy một bài kệ gồm 4 câu, vừa nghe 2 câu đầu, Ngài liền chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu. CHUYỂN PHÁP LUÂN Khi suy xét nên thuyết pháp tế độ cho ai đầu tiên, Đức Phật liền nghĩ đến vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta là bậc thiện trí có trí tuệ, nếu vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau lẹ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Lúc ấy chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch được 7 ngày qua. Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Ālāra Kālāmagotta đã viên tịch, do năng lực đệ tam thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Vô sở hữu xứ thiên thuộc vô sắc giới. Ngài nghĩ: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!” [12] . Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến vị Đạo sư Udaka Rāmaputta là bậc thiện trí có trí tuệ, nếu vị Đạo sư Udaka Rāmaputta được nghe chánh pháp, thì sẽ mau lẹ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Lúc ấy, chư thiên đến hầu Đức Phật và bạch rằng: - Kính bạch Đức Thế Tôn, vị Đạo sư Udaka Rāmaputta vừa mới viên tịch chiều hôm qua. Đức Phật quán xét, thấy đúng: Vị Đạo sư Udaka Rāmaputta đã viên tịch, do năng lực đệ tứ thiền vô sắc cho quả tái sinh lên cõi Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên thuộc vô sắc giới. Đức Phật nghĩ rằng: “Thật là sự bất lợi lớn lao quá!”. Tiếp đến, Đức Phật nghĩ đến nhóm 5 Tỳ khưu đã từng phụng sự, hộ độ cho Ngài trong thời gian còn là Bồ Tát hành khổ hạnh. Đức Phật nghĩ: “Vậy, đầu tiên Như Lai nên thuyết pháp tế độ nhóm 5 Tỳ khưu này”. Khi ấy, nhóm 5 Tỳ khưu đang ở tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana, gần thành Bārāṇasī. Vậy, từ khu rừng Uruvela, Đức Phật ngự đến kinh thành Bārāṇasī để thuyết pháp độ nhóm 5 Tỳ khưu: NgàiKondanna trưởng nhóm, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji. Đức Phật thuyết kinh Chuyển Pháp Luân Đức Thế Tôn ngự đến khu rừng phóng sanh nai gọi là Isipatana, nhằm vào ngày rằm tháng 6, sau khi trở thành bậc Chánh Đẳng Giác tròn đúng hai tháng. Nhóm 5 Tỳ khưu nhìn thấy Đức Phật từ xa đi đến, họ nghĩ lầm rằng: “Samôn Gotama đã từ bỏ sự tinh tấn hành pháp khổ hạnh, trở lại đời sống sung túc”. Vì nghĩ như vậy, nhóm 5 Tỳ khưu không còn đức tin và kính trọng Đức Phật như trước, họ đồng ý thỏa thuận với nhau rằng: “Chúng ta không đứng dậy đón rước, không tiếp nhận y và bát, không đảnh lễ, chỉ nên sắp đặt chỗ để cho Samôn Gotama ngồi mà thôi”. Nhưng khi Đức Phật đến gần, do oai lực và tâm đại bi của Ngài, nhóm 5 Tỳ khưu không còn nhớ lời giao ước, mà mỗi người đều tự động đứng dậy cung kính đón rước: Vị này nhận y bát, vị kia lấy nước rửa chân, vị thì sắp đặt trải chỗ ngồi cao quí, thỉnh Ngài đến ngự... Nhưng cách xưng hô của họ đối với Đức Phật vẫn bằng cách gọi: “Āvuso” không hợp lẽ đạo, thiếu cung kính đối với Đức Thế Tôn. Thấy vậy, Đức Phật dạy rằng: - Này chư Tỳ khưu, các con không nên gọi Như Lai bằng tiếng “Āvuso” [13] . Như Lai là Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Như Lai sẽ thuyết giảng chánh pháp mà Như Lai đã chứng ngộ. Các con hãy lắng nghe rồi thực hành theo, các con cũng sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn y theo Như Lai đã chứng ngộ”. Nhóm 5 Tỳ khưu vẫn chưa tin theo lời dạy của Đức Phật, vì nghĩ rằng: “Trước đây Samôn Gotama hành pháp khổ hạnh đến như thế, mà không chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác; nay trở lại đời sống sung túc như vậy, lại có thể chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác được hay sao?”. Đức Thế Tôn thấu hiểu rõ sự hoài nghi của nhóm 5 Tỳ khưu, nên Ngài đã giảng giải rõ ràng, phá tan được sự hoài nghi của họ. Cuối cùng, nhóm 5 Tỳ khưu cảm phục Đức Phật và phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài. Khi ấy mặt trời sắp lặn ở hướng Tây, mặt trăng ló dạng ở hướng Đông, Đức Thế Tôn lần đầu tiên thuyết pháp với bài kinh “Dhammacakkappavattanasutta” [14] (kinh Chuyển Pháp Luân). Nội dung bài kinh Chuyển Pháp Luân Lần đầu tiên Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân, để tế độ 5 nhóm Tỳ khưu là NgàiKoṇḍanna, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma, Ngài Assaji. Đức Phật dạy rằng: - Bậc xuất gia không nên hành hai pháp cực đoan thuộc hai biên kiến. Một là: Hưởng khoái lạc trong ngũ dục [15] do tâm tham ái hợp với tà kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm nhân trong đời, không phải của bậc Thánh Nhân cao thượng, không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh. Hai là: Tự ép xác, hành khổ mình do tâm sân và có đoạn kiến, thuộc pháp hành khổ hạnh của ngoại đạo, không phải của bậc Thánh Nhân cao thượng, không đem lại sự lợi ích giải thoát khổ sinh. Không thiên về hai biên kiến ấy, Đức Phật đã hành theo pháp hành Trung Đạo (Majjhimappaṭipadā) đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là: 1- Chánh kiến: Trí tuệ thiền tuệ chân chánh thấy rõ, biết rõ chân lý Tứ Thánh Đế - Khổ Thánh Đế. Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. 2- Chánh tư duy: Tư duy chân chánh - Tư duy thoát ra khỏi ngũ dục (xuất gia). Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. 3- Chánh ngữ: Lời nói chân chánh - Tránh xa lời nói dối. Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. 4- Chánh nghiệp: Hành nghề chân chánh - Tránh xa sự sát sanh. Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. 5- Chánh mạng: Nuôi mạng chân chánh - Tránh xa thân hành ác, khẩu nói ác liên quan đến việc nuôi mạng. Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. 6- Chánh tinh tấn: Tinh tấn chân chánh - Tinh tấn diệt ác pháp đã sinh. Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. 7- Chánh niệm: Niệm chân chánh - Niệm thân: Thân là đối tượng của chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác. Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. 8- Chánh định: Định chân chánh - Định trong đệ nhất thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn là đối tượng. Đó là 1 trong 8 chánh chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. Pháp hành Trung Đạo đó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh này chỉ đồng sinh với 4 Thánh Đạo Tâm và 4 Thánh Quả Tâm, chắc chắn có Niết Bàn là đối tượng. Bằng những pháp hành Trung Đạo này, Đức Phật đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế theo Tam Tuệ Luân: - Trí tuệ học Tứ Thánh Đế. Thành 12 loại trí tuệ đã phát sinh hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh và đã chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng sinh, cho nên Ngài có danh hiệu Đức Phật Chánh Đẳng Giác, độc nhất vô nhị. Đức Phật truyền dạy rằng: “Như Lai đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác vô thượng trong toàn thế giới chúng sinh, nhân loại, Vua chúa, Samôn, Bàlamôn, chư thiên, Ma vương và phạm thiên cả thảy”. Ngài Koṇḍanna chứng đắc bậc Thánh Nhập Lưu. Đức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 Tỳ khưu vô cùng hoan hỷ thực hành theo lời giáo huấn của Ngài. Trong nhóm 5 Tỳ khưu ấy, Ngài Koṇḍanna đã phát sinh Pháp Nhãnchứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu đầu tiên trong giáo pháp của Đức Phật Gotama. Khi ấy, Ngài Koṇḍanna xin Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu; Đức Phật đã cho phép Ngài Koṇḍanna thọ Tỳ khưu theo cách Ehi bhikkhūpasampadā. Thọ Tỳ khưu bằng cách Đức Phật gọi Ehi bhikkhu như sau: “Ehi bhikkhū!” ti Bhavagā avoca. Svākkhāto dhammo cara brahmacariyaṃ sammā dukkhassa antakiriyāya...”. Đức Thế Tôn truyền dạy rằng: “Con hãy lại đây! Con trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện. Chánh pháp mà Như Lai đã thuyết giảng hoàn hảo phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên cố gắng tinh tấn hành phạm hạnh cao thượng, để chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, để chấm dứt khổ tử sinh luân hồi”. Tam Bảo trọn vẹn xuất hiện trên thế gian Ngay khi Đức Phật truyền dạy vừa dứt câu, Ngài Koṇḍanna liền trở thành vị Tỳ khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của Tỳ khưu, phát sinh do phước thiện, cũng đồng thời Tam Bảo: Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảohoàn toàn đầy đủ trọn vẹn trên thế gian này, vào đúng ngày rằm tháng 6 (âm lịch). Bốn vị Tỳ khưu còn lại cũng sẽ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu theo tuần tự thời gian như sau: Ngày 16 tháng 6, Ngài Vappa chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập lưu và được phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu. Ngày 17 tháng 6, Ngài Bhaddiya chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu. Ngày 18 tháng 6, Ngài Mahānāma chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu. Ngày 19 tháng 6, Ngài Assaji chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu và được Đức Phật cho phép thọ Tỳ khưu bằng cách Ehi bhikkhu. Trong Phật giáo có 4 loại bậc Thánh Nhân: Bậc Thánh Nhập Lưu. Nhóm 5 Tỳ khưu đã chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu, chỉ mới là bậc Thánh thứ nhất trong Phật giáo. Bậc Thánh Nhập Lưu có khả năng diệt đoạn tuyệt được hai loại phiền não là tà kiến và hoài nghi. Bậc Thánh Nhập Lưu chưa có khả năng diệt đoạn tuyệt 8 loại phiền não còn lại và các tham ái, các ác pháp, nên chưa có thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới được. Cho nên, Đức Phật giảng bài Kinh Anattalakkhaṇasutta: Kinh Vô Ngã Tướng để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu tiếp tục chứng đắc thành bậc Thánh Arahán là bậc Thánh Nhân thứ tư cao thượng trong Phật giáo. Kinh Anattalakkhaṇasutta [16] Theo tuần tự thời gian đến ngày 20 tháng 6 (âm lịch), Đức Phật thuyết giảng bài kinh Anattalakkhaṇasutta: “Kinh Vô Ngã Tướng”, để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu trở thành bậc Thánh Arahán. Nội dung bài kinh, Đức Phật thuyết giảng về ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn đều là pháp vô ngã, không phải ta, không phải của ta. Mỗi uẩn đều có sự sinh, sự diệt, nên có trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã. Mỗi uẩn có 11 tính chất: quá khứ hoặc vị lai, hoặc hiện tại; bên trong hoặc bên ngoài; thô hoặc vi tế; thấp hèn hoặc cao quý; gần hoặc xa thực tánh của tất cả mỗi uẩn ấy không phải của ta, không phải là ta, không phải tự ngã của ta. Nhóm 5 Tỳ khưu có trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ ngũ uẩn đúng theo thực tánh của ngũ uẩn như vậy, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo - Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ nhì, tiếp tục chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo - Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ ba, cuối cùng là chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn lần thứ tư, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp không còn dư sót lại, trở thành bậc Thánh Arahán; trí tuệ quán xét thấy rõ, biết rõ Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả đã chứng đắc, Niết Bàn đã chứng ngộ, mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp đã diệt đoạn tuyệt không còn dư sót. Các Ngài có trí tuệ thấy rõ, biết rõ mọi phận sự Tứ Thánh Đế đã hoàn thành; phạm hạnh cao thượng đã hành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào khác nữa. Nhóm 5 Tỳ khưu trở thành bậc Thánh Arahán vào ngày 20 tháng 6 là những ngày đầu hạ thứ nhất của Đức Phật. Như vậy, ngoài Đức Phật ra, còn có thêm 5 vị Thánh Arahán xuất hiện trên thế gian. Những ngày quan trọng trong Phật giáo Trong Phật giáo, có những ngày lễ quan trọng đáng ghi nhớ: Ngày rằm tháng tư là ngày Đức Phật xuất hiện trên thế gian. (ngày rằm tháng tư cũng là ngày Đức Bồ Tát Siddhattha đản sinh, và 80 năm sau, cũng là ngày Đức Phật tịch diệt Niết Bàn) * Ngày rằm tháng sáu là ngày Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển Pháp Luân đầu tiên, để tế độ nhóm 5 Tỳ khưu, đồng thời cũng là ngày Tam Bảo: “Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo” đầy đủ hoàn toàn xuất hiện trên thế gian. * Ngày rằm tháng giêng là ngày Đại hội chư Thánh Arahán gồm có 1.250 vị. -ooOoo- [1] Khi chân đạp trên mặt đất thì tiếp xúc toàn bàn chân, gót chân, giữa bàn chân, đầu ngón chân bằng phẳng cùng một lúc, không phần nào trước, không phần nào sau ; và khi giở bàn chân lên cũng thăng bằng như vậy. [2] Bộ Dīghanikāya Pāthikaragga, kinh Aṭānāṭīyasutta. [3] Lắng nghe chánh pháp rồi tán dương ca tụng Saadhu! Lành thay! Sẽ có quả báu miệng có mùi thơm. [4] Đối với Đức Phật Độc Giác, bậc Thánh Thanh Văn Giác thì Túc mạng minh có giới hạn. [5] Dưới cội cây nào mỗi Đức Bồ Tát chứng đắc thành Bậc Chánh Đẳng Giác, cây ấy đều được gọi là Bodhirukkha: Cây Bồ đề, mỗi Đức Phật có mỗi cây Bồ đề khác nhau. [6] Dhammapadagāthā số 153, 154. [7] Phiền não có tất cả 1.500 loại. [8] Tham ái có tất cả 108 loại. [9] Hiện nay tại Buddhagayā tại xứ Ấn Độ, quanh Đại cội Bồ đề có đánh dấu kỷ niệm 7 nơi mà Đức Phật đã an hưởng pháp vị giải thoát Niết Bàn . [10] Chú giải Maj Mūlapannāsa, kinh Pāsarāsisutta. [11] Bộ chú giải Majjhimanikāya, Mūlapannāsa, kinh Pāsarāsisutta. [12] Sự bất lợi ở đây có nghĩa: Chúng sinh ở cõi trời vô sắc, không có sắc uẩn, nên không có tai để nghe được chánh pháp, đã mất đi cơ hội tốt hiếm có, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn. [13] “Āvuso” từ dùng để gọi vị nhỏ hạ. “Bhante” từ dùng để gọi vị cao hạ một cách tôn kính. [14] Bộ Samyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta ý nghĩa toàn bài kinh xem trong phần Đức Pháp sau. [15] Ngũ dục: Sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục. [16] Bộ Samyuttanikaya, Khandhavagga, Anattalakkhaṇasutta. Ý nghĩa toàn bài kinh xem trong phần Đức Pháp sau. <span" style="font-style: normal; font-variant-caps: normal; font-weight: normal; letter-spacing: normal; orphans: auto; text-align: start; text-indent: 0px; text-transform: none; white-space: normal; widows: auto; word-spacing: 0px; -webkit-text-size-adjust: auto; -webkit-text-stroke-width: 0px; text-decoration: none; caret-color: rgb(0, 0, 0); color: rgb(0, 0, 0);"> -ooOoo- </span"> from https://theravada.vn/chuong-i-b-32-tuong-tot-cua-bac-dai-nhan/ |
ABOUT USPhật Giáo là đề tài sâu sắc, chúng con đã cố gắng sưu tầm gom nhặt từ các nguồn tài liệu trình bày trong trang Theravada.vn này, giúp cho độc giả hiểu biết một phần cơ bản về Dhamma, về Pháp mà Đức Phật đã thuyết giảng. ArchivesNo Archives Categories |